TÓM LƯỢC LỊCH SỬ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI ĐẠI
Dân tộc Việt Nam luôn tự
hào về lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, thế
hệ trẻ ngày nay hầu hết đều hời hợt về lịch sử của chính mình. Điển hình là
trong kỳ thi tuyển sinh đại học 2011, có đến hàng ngàn bài thi lịch sử bị điểm
0. Đây là tín hiệu báo động cho ngành giáo dục nói chung và việc dạy và học môn
học này nói riêng. Các bạn trẻ ngày nay hầu hết đều bị ảnh hưởng bởi “làn sóng
du nhập văn hóa” ít nhiều đặc biệt là từ Trung Quốc. Điều này không phải là
điều xấu, tuy nhiên một người Việt Nam biết rành về lịch sử Trung Quốc hơn lịch
sử Việt Nam là vấn đề cần phải xem xét và tư duy một cách nghiêm túc. Để tiện
cho việc tìm hiểu và tra cứu, tôi xin phép vắn tắt về lịch sử Việt Nam qua bài
viết Tóm lược lịch sử Việt Nam qua các thời đại.
Thời tiền sử
·
Thời đồ đá cũ : con người đã sinh sống từ hàng trăm ngàn
năm trước ở lãnh thổ Việt Nam với các di tích của nền văn hóa Sơn Vi.
·
Thời đồ đá mới : khoảng từ 5700-15000 năm trước, tiêu
biểu với nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn với nền văn minh lúa nước.
·
Thời đồ đồng-đá : khoảng 3500-4000 năm
trước, tiêu biểu với nền văn hóa Phùng Nguyên.
·
Thời đồ đồng : cách đây khoảng 3000 năm trước,
tiêu biểu với nền văn hóa Đồng Đậu, văn hóa Gò Mun.
·
Thời đồ sắt : khoảng 1200 TCN, tiêu biểu với nền văn
hóa Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo.
Thời Hồng Bàng (2879 TCN – 208 TCN)
· Nước Xích Quỷ : có thể coi đây là một nhà nước “liên bang” lỏng lẻo của các bộ tộc người Việt cổ, sinh sống ở vùng Lĩnh Nam. Tương truyền Đế Minh là cháu 3 đời của Viêm đế (tức Thần Nông) trong khi đi xuống phía Nam đã kết hôn với một vị tiên nữ và sinh được một người con tên là Lục Tộc. Đế Minh phong cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, phong cho con thứ là Lục Tộc làm vua phương Nam lấy hiệu là Kinh Dương Vương, tên nước là Xích Quỷ. Như vậy Kinh Dương Vương chính là thủy tổ của dân tộc Việt. Kinh Dương Vương lấy con gái vua Động Đình Hồ là Long Nữ và sinh được một người con trai tên là Sùng Lãm. Sau Kinh Dương Vương truyền ngôi lại cho Sùng Lãm, tức là Lạc Long Quân. Sau Lạc Long Quân lấy một vị tiên nữ đẻ ra bọc trăm trứng nở trăm con. Đây chính là tổ tiên của người Bách Việt.
·
Nhà nước Văn Lang : sau thời kỳ “liên bang” tan rã,
khoảng thế kỷ 7 TCN, những người Lạc Việt sống ở miền Bắc Việt Nam bi giờ đã
xây dựng nhà nước cho riêng mình. Đó là nhà nước Văn Lang do các vua Hùng trị
vì đóng đô tại Phong Châu (Phú Thọ ngày nay).
·
Nhà Thục (257 TCN – 208 TCN) : khoảng thế kỷ thứ 3
TCN, Thục Phán là thủ lĩnh của bộ tộc Âu Lạc đã cùng vua Hùng thứ 18 hợp lực
đánh bại quân đội xâm lược của nhà Tần. Vua Hùng đã nhường ngôi cho Thục Phán,
sáp nhập lãnh thổ hai nước Âu Việt và Lạc Việt thành Âu Lạc. Thục Phán lên ngôi
vua lấy hiệu là An Dương Vương, lập nên nhà Thục, đóng đô ở Cổ Loa.
Thời Bắc thuộc lần I (208 TCN – 39)
·
Nhà Triệu (208 TCN – 111 TCN) : Triệu Đà là quan uý quận Nam Hải (nay là
Quảng Đông) nhân lúc nhà Tần suy yếu đã cát cứ quận Nam Hải sau đó đem quân đi
thôn tính các lãnh thổ của Âu Lạc, Mân Việt và quận Quế Lâm thành lập nhà
Triệu, đặt tên nước là Nam Việt, kinh đô là Phiên Ngưng, xưng ngang hàng với
nhà Hán bên Trung Quốc. Tuy là vua ngoại tộc nhưng Triệu Đà đã đứng về phía dân
tộc Việt trong cuộc chiến chống lại nhà Hán.
·
Thuộc Hán (111 TCN – 39) : năm 111TCN, Hán Vũ Đế đã điều hơn 10 vạn quân đi
thôn tính nước Nam Việt. Bọn quan lại nhà Triệu đã quỳ gối xin hàng và Nam Việt
đã bị sát nhập vào lãnh thổ của nhà Hán. Nhà Hán đã chia Nam Việt thành 9 quận
bao gồm Đạm Nhĩ, Chu Nhai (đảo Hải Nam, Trung Quốc ngày nay), Nam Hải, Hợp Phố,
Uất Lâm, Thương Ngô(đều thuộc Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay), Giao
Chỉ (Bắc Bộ, Việt Nam ngày nay), Cửu Chân (Thanh Hóa-Nghệ Tĩnh, Việt Nam ngày
nay), Nhật Nam (Quảng Bình-Quảng Nam, Việt Nam ngày nay). Chúng đã cai trị dân
ta bằng một chính sách tàn bạo và khắc nghiệt.
Trưng Nữ Vương (40 – 43)
Đây là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu trong thời kỳ này dưới sự lãnh đạo của hai
chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Trong vòng 3 năm dưới sự lãnh đạo của 2 bà,
quân ta đã đánh chiếm được 65 thành trì ở các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
Nam, Hợp Phố. Sau đó nhà Hán đã sai tướng Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa.
Do bị cô lập và quân đội còn sơ khai chưa hoàn thiện nên 2 bà đã không chống cự
nổi quân của Mã Viện và đã tuẫn tiết tại sông Hát để giữ vẹn khí tiết.
Thời kỳ Bắc thuộc lần II (43 – 543)
Trải qua các triều đại như Đông Hán, Đông Ngô, Tấn, Lưu Tống, Nam Tề,
Lương. Tiêu biểu trong thời kỳ này có cuộc khởi nghĩa của bà Triệu năm 248
chống lại Đông Ngô, cuộc khởi nghĩa của anh em Lý Trường Nhân – Lý Thúc Hiến từ
468 đến 485 chống lại nhà Lưu Tống, Nam Tề.
Nhà Tiền Lý (544-602)
Năm 542 Lý Bí khởi nghĩa đánh bại nhà Lương.
·
Lý Nam Đế (544-548) : sau 3 lần đánh bại được quân của
nhà Lương đến mùa xuân 544, Lý Bí xưng đế tức Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn
Xuân.
·
Triệu Việt Vương (548-571) : năm 545 nhà
Lương lại cử quân sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế liên tục thua trận nên đã
rút về động Khuất Lão và trao binh quyền cho Triệu Quang Phục. Năm 548, ông bị
bệnh nặng và mất, Triệu Quang Phục lên thay lấy hiệu Triệu Việt Vương, tiếp tục
lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống lại nhà Lương. Cuối năm 550 Triệu Quang Phục
đánh bại quân nhà Lương, khôi phục nước Vạn Xuân.
·
Lý Phật Tử (571-602) : năm 546 khi Lý Nam Đế thua trận và
phải rút quân về động Khuất Lão, anh trai của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo cùng vị
tướng Lý Phật Tử mang 3 vạn quân ra đánh Đức Châu (Nghệ An) nhưng bị quân nhà
Lương đánh bại nên phải thu thập tàn quân chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao
xây đắp thành trì để ở. Tại đây Lý Thiên Bảo tự xưng là Đào Lang Vương, đặt tên
nước là Dã Năng. Năm 555 Đào Lang Vương mất, mọi người tôn Lý Phật Tử lên thay.
Năm 557, Lý Phật Tử kéo quân về Vạn Xuân gây chiến với Triệu Quang Phục. Năm
571, Lý Phật Tử đã đánh bại Triệu Quang Phục, tự xưng là Nam Đế (nên sử sách
gọi là Hậu Lý Nam Đế).
Thời kỳ Bắc thuộc lần III (602 – 905)
Năm 581 ở Trung Quốc nhà Tùy thành lập. Năm 602, vua Tùy đem quân đánh nước
ta. Lý Phật Tử xin hàng, nước ta lại rơi vào tay ngoại bang phương Bắc lần nữa.
Sau đó nhà Đường lên thay nhà Tùy cai trị nước ta.
·
Mai Hắc Đế (713-722) : Năm 713, Mai Thúc Loan
lãnh đạo nghĩa quân khởi nghĩa ở Hoan Châu chống lại ách đô hộ nhà Đường và
giành được thắng lợi. Ông lên ngôi vua, xưng là Mai Hắc Đế. Năm 722, nhà Đường
sai 10 vạn quân sang đánh nước ta. Sau nhiều trận đánh khốc liệt, Mai Hắc Đế
thất trận, ông rút quân vào rừng lâm bệnh nặng rồi mất. Tương truyền con trai
thứ 3 của ông là Mai Thúc Huy lên thay lấy hiệu là Mai Thiếu Đế và tiếp tục
chống trả quân nhà Đường đến năm 723 thì tan rã. Nước ta lại rơi vào tay nhà
Đường.
Trong thời kỳ này có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân, tiêu biểu : khởi nghĩa
Phùng Hưng (766-791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820).
Thời kỳ độc lập tự chủ (905 – 938)
·
Khúc Thừa Dụ (905-907) : năm 905 Khúc
Thừa Dụ khởi nghĩa giành chính quyền, tự xưng là Tiết Độ Sứ. Nhà Đường không
còn cách nào khác phải công nhận quyền tự chủ của người Việt.
·
Khúc Hạo (907-917) : năm 907 Khúc Thừa Dụ qua đời, con
là Khúc Hạo lên thay.
·
Khúc Thừa Mỹ (917-930) : năm 917 Khúc
Thừa Mỹ là con của Khúc Hạo lên thay cha giữ chức Tiết Độ Sứ. Vào thời gian
này, chính quyền phương Bắc đang rất hỗn loạn hình thành nên cục diện Ngũ Đại
Thập Quốc. Năm 930 quân Nam Hán đem quân sang đánh nước ta, Khúc Thừa Mỹ chống
cự không nổi sức địch, bị bắt và giải về Phiên Ngưng.
·
Dương Đình Nghệ (931-938) : năm 931 Dương Đình
Nghệ, là tướng cũ của của Khúc Hạo, đã đánh chiếm Giao Châu và đánh tan quân
tiếp viện của Nam Hán giành lại chính quyền. Sau khi dẹp xong giặc, ông tự xưng
Tiết Độ Sứ tiếp tục xây dựng nền tự chủ của nước ta.
Nhà Ngô (939 – 965)
·
Ngô Vương (939-944) : năm 938 Dương Đình
Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết chết để đoạt chính quyền. Con rể của Dương Đình
Nghệ là Ngô Quyền khởi binh trừng phạt. Kiều Công Tiễn bỏ chạy sang cầu cứu với
Nam Hán. Năm 938, Nam Hán kéo quân sang nước ta. Lúc này, Ngô Quyền đã diệt được
Kiều Công Tiễn và bố trí trận địa chờ sẵn. Khi quân Nam Hán đến cửa sông Bạch
Đằng đã bị quân ta đánh cho tan tác phải tháo chạy về nước. Năm 939, Ngô Quyền
xưng vương.
·
Dương Bình Vương (944-950) : năm 944 Ngô
Quyền mất ủy thác con trưởng là Ngô Xương Ngập cho em vợ là Dương Tam Kha. Kha
cướp ngôi Ngập và xưng là Dương Bình Vương. Dương Tam Kha nhận con trai thứ của
Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi với ý định truyền trả lại ngôi vương
cho nhà họ Ngô.
·
Hậu Ngô Vương (944-965) : năm 950 Dương Tam Kha
phái Ngô Xương Văn đi đánh phản loạn ở Thái Bình. Xương Văn đem quân đánh úp
trở lại Dương Tam Kha giành lại chính quyền tuy nhiên ông không giết Dương Tam
Kha mà chỉ giáng xuống làm Chương Dương Công. Ông tự xưng Nam Tấn Vương và cho
đón anh trai mình là Ngô Xương Ngập về. Xương Ngập là người ti tiện sau khi trở
về cậy mình là đích trưởng cũng tự xưng là Thiên Sách Vương. Bấy giờ đất nước
có 2 vua cùng trị vì. Xương Ngập chuyên quyền, không cho Xương Văn tham gia
chính sự và có ý định trừ khử Xương Văn nhưng việc chưa thành thì đến năm 954
Xương Ngập bệnh nặng và mất. Năm 965, khi mang quân đi dẹp loạn ở Thái Bình,
Xương Văn bị trúng nỏ tử trận. Con của Xương Ngập là Ngô Xương Xí lên thay
nhưng thế lực yếu kém.Đất nước lúc bấy giờ hình thành 12 sứ quân.
Nhà Đinh (968 – 980)
·
Đinh Tiên Hoàng (968-979) : năm 968 Vạn
Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân. Ông xưng đế tức Đinh Tiên
Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
·
Đinh Phế Đế (979-980) : năm 979 Đinh
Tiên Hoàng và con trai trưởng của mình là Đinh Liễn bị ám hại. Con trai thứ là
Đinh Toàn lên thay, tức Đinh Phế Đế. Khi đó Đinh Toàn chỉ mới được 6 tuổi nên
mọi quyền hành đều tập trung vào tay nhiếp chính là Thập đạo tướng quân Lê
Hoàn.
Nhà Tiền Lê (980 – 1009)
·
Lê Đại Hành (980-1005) : bấy giờ nhà Tống
hay tin Đinh Tiên Hoàng đã băng hà nên đã cử quân sang xâm lược nước ta. Với sự
hậu thuẫn của Thái hậu Dương Vân Nga, triều thần đã tôn Lê Hoàn lên ngôi, tức
là Đại Hành Hoàng đế. Với tài năng của mình, ông đã lãnh đạo quân đội đánh tan
quân xâm lược nhà Tống. Ông là người có công lớn trong việc “Kháng Tống, Bình
Chiêm” để giữ yên bờ cõi.
·
Lê Trung Tông (1005) : sau khi Lê Đại Hành băng hà, các
con tranh giành nhau ngôi vị dẫn đến cốt nhục tương tàn. Lê Long Việt sau khi đánh
đuổi được Long Ngân, đã lên ngôi hoàng đế, tức Lê Trung Tông. Nhưng chỉ 3 ngày
sau, em của ông là Lê Long Đĩnh sai người ám sát.
·
Lê Ngọa Triều (1005-1009) : sau khi giết anh mình
là Lê Long Việt. Lê Long Đĩnh lên ngôi, tức Lê Ngọa Triều. Ông được sử sách ghi
nhận là người dâm đãng, tàn bạo và độc ác. Do ăn chơi trác táng, Long Đĩnh đã
bệnh nặng và mất năm 1009 kết thúc triều đại tiền Lê.
Nhà Lý (1009 – 1225)
·
Lý Thái Tổ (1009-1028) : năm 1009 Lê Long Đĩnh
chết, dưới sự hậu thuẫn của quan Chi hậu là Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh, quần
thần đã tôn quan Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế,
tức Lý Thái Tổ. Ông cho dời đô về Thăng Long và đặt niên hiệu là Thuận Thiên.
·
Lý Thái Tông (1028-1054) : năm 1028 Lý Thái
Tổ băng hà, thái tử Lý Phật Mã dưới sự phò trợ của Vũ vệ tướng quân Lê Phụng
Hiểu đã dẹp được loạn Tam vương và lên ngôi Hoàng đế, tức Lý Thái Tông. Ông là
vị vua tài năng và nhân từ, có công lao rất lớn trong việc đánh Chiêm Thành rồi
đánh Ai Lao mở mang bờ cõi xuống phiá Nam.
·
Lý Thánh Tông (1054-1072) : năm 1054 Lý Thái
Tông băng hà, thái tử Lý Nhật Tôn kế ngôi hoàng đế, tức Lý Thánh Tông. Ông là
vị vua tài ba xuất chúng, lại có lòng nhân từ độ lượng. Bên trong ông ổn định
tình hình, bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Ông có công lao to lớn trong
việc “phá Tống, bình Chiêm”.
·
Lý Nhân Tông (1072-1127) : năm 1072 Lý Thái Tông
băng hà. thái tử Lý Càn Đức lên ngôi khi mới 7 tuổi, tức Lý Nhân Tông. Ông được
xem là một vị minh quân của vương triều Lý. Nhờ vào sự giúp đỡ của Thái Phi Ỷ
Lan làm Nhiếp chính, cùng với sự phò tá của Thái sư Lý Đạo Thành và Phụ quốc
Thái úy Lý Thường Kiệt, mà nước Đại Việt đã trở thành một đế chế hùng mạnh với
2 lần đánh tan quân Tống xâm lược, đất nước phát triển đến mức cực thịnh. Ông
cũng được coi là người đặt nền móng cho giáo dục đại học ở nước ta.
·
Lý Thần Tông (1127-1137) : năm 1127 Lý Nhân Tông
băng hà, con là thái tử Lý Dương Hoán nối ngôi, tức Lý Thần Tông. Trong thời
gian trị vì ông đã đánh Chân Lạp và Chiêm Thành buộc 2 nước này phải đến tiến
cống. Ông cũng là vị vua gắn liền với giai thoại nhân gian “Vua hóa hổ”. Tương
truyền, ông là hậu thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh. Khi vua Lý Nhân Tông không có
con để nối ngôi thì sư Từ Đạo Hạnh sau khi chết đã đầu thai làm con của Sùng
Hiền Hầu là em trai vua Nhân Tông, tức Lý Dương Hoán. Do lúc sinh thời sư Từ
Đạo Hạnh là người đắc đạo, biết được ác nghiệp của mình là sẽ bị hóa thành hổ
nên trước khi đầu thai ông đã nhờ người bạn đồng tu của mình là nhà sư Nguyễn
Minh Không giúp đỡ. Sau này chính sư Nguyễn Minh Không đã chữa trị căn bệnh
“hoá hổ” của vua Thần Tông vậy.
·
Lý Anh Tông (1138-1175) : năm 1138, vua Lý
Thần Tông băng hà, con thứ 2 là thái tử Lý Thiên Tộ kế vị, tức Lý Anh Tông. Vì
vua lên ngôi còn nhỏ nên bị Thái úy nhiếp chính Đỗ Anh Vũ nắm hết quyền hành,
mẹ ông là bà Lê Thị Lại tư thông với Vũ. Năm 1158 Đỗ Anh Vũ chết, vua Anh Tông
lúc này mới trọng các hiền thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công
Tín. Các hiền thần này đã giúp vua đánh Đông, dẹp Bắc giữ yên bờ cõi và sự
thịnh vượng của các đời vua trước.
·
Lý Cao Tông (1175-1210) : năm 1175, vua Lý
Anh Tông băng hà, con thứ 2 là thái tử Lý Long Cán được sự phò trợ của Phụ
chính Tô Hiến Thành lên ngôi kế vị, tức Lý Cao Tông. Vua là người bên trong thì
ham thích tửu sắc, ăn chơi, săn bắn bên ngoài thì thích tiền của, xây cung
điện. Sau khi Tô Hiến Thành mất, chính sự rối ren, giặc giã nổi dậy khắp nơi,
lòng dân oán thán, ngoại xâm rình rập.
·
Lý Huệ Tông (1210-1224) : năm 1210 Lý Cao Tông
mất, con là thái tử Lý Sảm lên ngôi, tức Lý Huệ Tông. Lý Huệ Tông lên ngôi
trong lúc tình hình đất nước rối ren do cha là Cao Tông gây ra. Ông phải dựa
vào thế lực họ Trần để giữ vững ngôi vua của mình. Lúc này thế lực họ Trần đang
rất lớn mạnh. Trần Thị Dung làm hoàng hậu, anh là Trần Tự Khánh làm Phụ Chính
Thái uý, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ. Bề ngoài Huệ Tông dùng họ Trần nhưng
thật chất bên trong ông đã nhìn thấy được cái họa quyền thần và luôn tìm cách
để tiêu diệt. Nhưng do kém tài nên ông đành “lực bất tòng tâm” nhìn quyền thần
ngang ngược. Ông uất hận đến độ phát cuồng.
·
Lý Chiêu Hoàng (1224-1225) : năm 1223 Trần Tự
Khánh chết, quyền hành lại rơi vào tay em họ của Tự Khánh là Trần Thủ Độ. Năm
1224, Trần Thủ Độ ép vua Huệ Tông đi tu để nhường ngôi cho con gái nhỏ là Lý
Chiêu Hoàng khi đó mới 7 tuổi. Dưới tài đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu
Hoàng đã lấy Trần Cảnh là cháu họ của Trần Thủ Độ. Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu
(22/11/1225) Lý Chiêu Hoàng ban chiếu nhường ngôi cho Trần Cảnh. Ngày mồng 1
tháng chạp cùng năm (31/12/1225) Chiêu Hoàng chính thức trút bỏ hoàng bào mời
Trần Cảnh lên làm hoàng đế chấm dứt 216 năm với 11 triều vua trị vì của nhà Lý
mở ra thời đại của nhà Trần.
Nhà Trần (1225 – 1400)
·
Trần Thái Tông (1225-1258) : lúc này do nhà
Lý suy yếu, quyền hành tập trung trong tay họ Trần. Chính sự đạo diễn của Trần
Thủ Độ đã đưa Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế mở ra triều đại nhà Trần. Trong lúc
tại vị, ông đã lãnh đạo nhân dân chống lại cuộc xâm lược lần thứ 1 của quân
Nguyên Mông.
·
Trần Thánh Tông (1258-1278) : năm 1258 vua
Thái Tông nhường ngôi lại cho con mình là Trần Hoảng, tức Trần Thánh Tông, để
trở thành Thái Thượng hoàng. Ông là vị vua nhân hậu, hòa ái. Ông đã cùng với
Trần Nhân Tông 2 lần đánh tan quân Nguyên Mông xâm lược trong thời gian làm
Thái Thượng hoàng.
·
Trần Nhân Tông (1278-1293) : năm 1278 vua
Thánh Tông nhường ngôi lại cho con trai là Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông, còn
mình thì lui về làm Thái Thượng hoàng và nghiên cứu Phật pháp. Ông là vị vua
thông minh, quyết đoán. Ông đã cùng với cha mình là Thái thượng hoàng Thánh
Tông 2 lần đánh tan giặc Nguyên Mông. Ông cũng từng thân chinh đem quân đi đánh
giặc Ai Lao quấy nhiễu. Sau khi nhường ngôi cho con, ông trở thành Thái Thượng
hoàng, chú tâm nghiên cứu Phật pháp. Sau đó ông xuất gia tu hành và trở thành
tổ sư thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
·
Trần Anh Tông (1293-1314) : năm 1293 sau khi
đánh tan được quân xâm lược Nguyên Mông, vua Nhân Tông về làm Thái Thượng Hoàng
nhường ngôi cho con mình là Trần Thuyên, tức Trần Anh Tông. Ông cũng là vị vua
đức độ, anh minh. Đất nước lúc bấy giờ vua hiền tôi trung nên tiếp tục phát
triển thịnh vượng.
·
Trần Minh Tông (1314-1329) : năm 1314, vua
Anh Tông nhường ngôi hoàng đế lại cho con trai của mình là Trần Mạnh, tức Trần
Minh Tông, lui về làm Thái thượng hoàng. Ông tiếp tục truyền thống của các tiên
đế, coi trọng kẻ sĩ nên đất nước có nhiều hiền tài giúp sức.
·
Trần Hiến Tông (1329-1341) : năm 1329 Trần
Minh Tông lui về làm Thái Thượng hoàng, nhường ngôi cho con trai thứ là Trần
Vượng, tức Trần Hiến Tông. Ông được xem là vị vua “lấy vì” do thực quyền đều do
Thái Thượng hoàng Minh Tông nắm giữ.
·
Trần Dụ Tông (1341-1369) : năm 1341, vua
Hiến Tông mất mà không có con nối dõi nên Thái Thượng Hoàng Minh Tông đã lập
con thứ 10 của mình, em của Hiến Tông là Trần Hạo làm vua, tức Trần Dụ Tông. Do
được Thái Thượng Hoàng chăm lo mọi việc từ trong ra ngoài nên vua Dụ Tông chỉ
biết ham chơi hưởng lạc. Năm 1357 Thượng hoàng Minh Tông mất, đất nước bắt đầu
rói ren, gian thần hoành hành.
·
Trần Nghệ Tông (1370-1372) : năm 1369 Dụ Tông
mất, do không có con nên vua lập Nhật Lễ làm vua. Nhật Lễ là người dị tộc vốn
không mang họ Trần, là con riêng của vợ Trần Nguyên Dục – một người anh của Dụ
Tông. Nhật Lễ kém tài, kém đức lại có ý định đổi sang họ tộc của mình là Dương
nên khiến quần thần vô cùng bất bình. Trần Phủ là anh của Dụ Tông đã hợp mưu
phế thuất Nhật Lễ để lên ngôi hoàng đế, tức Trần Nghệ Tông. Vua cung kính, kiêm
ước thì có thừa mà quyết đoán, cương nghị thì không đủ nên nạn bên trong đã
được dẹp yên nhưng giặc bên ngoài thì giặc Chiêm Thành hoành hành ngang
ngược.
·
Trần Duệ Tông (1372-1377) : năm 1372, Nghệ
Tông nhường ngôi lại cho em là Trần Kính, tức Duệ Tông, rồi lui về làm Thái
Thượng hoàng. Duệ Tông là người có tài nhưng tính tình tự phụ. Trong thời gian
này giặc Chiêm Thành vẫn hay xâm lấn,cướp phá ở biên cương.
·
Trần Phế Đế (1377-1388) : năm 1377 vua Duệ
Tông thân chinh dẫn 12 vạn quân đánh nước Chiêm Thành. Do khinh thường quân
địch nên vua đã rơi vào bẫy phục kích mà tử trận. Thái Thượng hoàng Nghệ Tông
thương tiếc nên lập Trần Hiện là con vua Duệ Tông làm hoàng đế, tức Trần Phế
Đế. Lúc này bên trong thế lực của họ Hồ đang rất lớn mạnh, bên ngoài phía Nam
có giặc Chiêm Thành, phía Bắc có giặc nhà Minh.
·
Trần Thuận Tông (1388-1398) : vì Phế Đế biết
được dã tâm của Hồ Quý Ly nên âm thầm tìm cách trừ khử. Quý Ly biết được bèn
xui với Thượng hoàng Nghệ Tông. Nghệ Tông nghe lời phế bỏ Phế Đế rồi đưa con út
của mình là Trần Ngung lên ngôi, tức Trần Thuận Tông. Thuận Tông tuổi nhỏ nhu
nhược nên mọi quyền hành đều tập trung vào tay Hồ Quý Ly. Sau khi giết được vua
Chiêm Thành là Chế Bồng Nga thì mặt trận phía Nam xem như tạm ổn nhưng nội loạn
bên trong xem ra ngày càng hỗn loạn.
·
Trần Thiếu Đế (1398-1400) : năm 1398 Hồ Quý
Ly ép vua Thuận Tông nhường ngôi lại cho con nhỏ mới được 2 tuổi là Trần An,
tức Thiếu Đế. Họ Hồ còn ép Thuận Tông đi tu và đã cho người theo để ám sát.
Thiếu Đế tuổi còn quá nhỏ nên họ Hồ từ đó tung hoàng trong triều đình. Thiếu Đế
ở ngôi được 1 năm thì bị ông ngoại là Hồ Quý Ly cướp ngôi, chấm dứt 175 năm cai
trị của nhà Trần.
Nhà Hồ (1400 – 1407)
·
Hồ Quý Ly (1400-1401) : năm 1400, Hồ Quý
Ly cướp ngôi cháu ngoại của mình là Trần Thiếu Đế, lập nên nhà Hồ đặt tên nước
là Đại Ngu.
·
Hồ Hán Thương (1401-1407) : năm 1401 Hồ Quý
Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi lui về làm Thái Thượng hoàng. Năm
1406 nhà Minh lấy cớ “phò Trần diệt Hồ” đã đem quân sang đánh nước Đại Ngu. Cha
con họ Hồ chống không nổi sức địch. Năm 1407 cha con Hồ Quý Ly bị bắt và giết
chết.
Nhà Hậu Trần (1407 – 1409)
·
Giản Định Đế (1407 – 1409) : năm 1407, sau
khi quân Minh đã đánh chiếm được nước Đại Ngu của nhà Hồ thì Trần Ngỗ là con
trai của vua Nghệ Tông bỏ trốn đến Mô Độ, Trường Yên. Tại đây ông xưng vua, tức
Giản Định Đế, và lãnh đạo quân đội đánh chiếm lại đất đai từ tay nhà Minh, khôi
phục lại triều đại nhà Trần.
·
Trùng Quang Đế (1409 – 1413) : năm 1409 nội bộ
nhà Trần dần bị chia rẽ. Một số tướng lĩnh bất mãn đã bỏ đi và đón Trần Quý
Khoáng là cháu nội của Nghệ Tông ra Nghệ An làm vua, tức Trùng Quang Đế. Sau đó
Trùng Quang Đế sai quân đánh úp Giản Định Đế đem về tôn làm Thái Thượng
Hoàng.
Thời kỳ Bắc Thuộc lần IV (1413 – 1428)
Cuộc chiến giữa nhà Trần và quân Minh xâm lược diễn ra rất ác liệt. Cuối
cùng do lực lượng mỏng manh nên đến năm 1413 quân Minh phản kích và đánh bại
quân nhà Trần. Vua tôi nhà Trần toàn bộ bị bắt và đã tự vẫn để giữ trọn khí
tiết. Nước ta rơi vào tay nhà Minh.
Nhà Hậu Lê – Lê sơ (1428 – 1527)
·
Lê Thái Tổ (1428 – 1433) : năm 1428, Lê Lợi
tập hợp anh hùng hào kiệt, phất cờ khởi nghĩa, sử gọi là Khởi nghĩa Lam Sơn.
Ông cũng tự xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đứng lên chống giặc Minh
cứu nước. Năm 1427, ông đã lãnh đạo quân đội đánh tan 15 vạn quân cứu viện và
chém chết Liễu Thăng. Năm 1428 ông lên ngôi hoàng đế, tức Lê Thái Tổ.
·
Lê Thái Tông (1433 – 1442) : năm 1433, vua Lê
Thái Tổ băng hà, con thứ là thái tử Lê Nguyên Long lên kế ngôi khi được 11
tuổi. Từ nhỏ ông đã tỏ ra là vị vua anh minh sáng suốt, có tài nhìn xa trông
rộng, tuy tuổi nhỏ nhưng tự mình cầm quyền chấp chính. Tuy nhiên ông cũng là
một vị vua hiếu sắc, đa tình và thảm cảnh là cái chết để lại một nghi án lớn
trong lịch sử, đó là vụ án Lệ Chi Viên.
·
Lê Nhân Tông (1442 – 1459) : năm 1442, vua Lê
Thái Tông băng hà một cách bí ẩn tại Lệ Chi Viên, thái tử Lê Bang Cơ lên ngôi
vua, tức Lê Nhân Tông, thái hậu là Nguyễn Thị Anh nhiếp chính. Ông là vị vua
nhân từ, bác ái, trọng đãi công thần, hiếu đễ
Thái hậu, thương yêu anh em. Thân thế của ông vẫn còn là một bí ẩn. Tương
truyền rằng, ông không phải là con vua Thái Tông. Trước khi mẹ ông vào cung,
thì bà đã có thai với một người tên là Lê Bang Sơn. Đó cũng là lý do khiến ông
bị anh mình là Lê Nghi Dân ám sát.
·
Lê Thánh Tông (1460 – 1497) : sau khi giết chết vua
Nhân Tông, Nghi Dân lên ngôi, làm vua được 8 tháng, tuy nhiên sử sách không
công nhận ngôi vua của Nghi Dân. Năm 1460 các công thần trụ cột nổi dậy, lật đổ
Nghi Dân và đưa con thứ 4 của vua Thái Tông là Lê Tư Thành lên ngôi hoàng đế,
tức Lê Thánh Tông. Ông là một bậc minh quân và là vị vua đã đưa nước Đại Việt
phát triển đến thời cực thịnh. Bên trong ông chú trọng giáo dục, trọng dụng
hiền tài. Bên ngoài ông chú trọng mở mang bờ cõi. Trong thời kỳ này với việc
Tây tiến và Nam tiến của mình, Đại Việt đã mở mang bờ phía Nam xuống tận Quãng
Nam. Các nước lân bang như Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp, Lan xang, Chiang Mai,
Melaka (thuộc Malaysia ngày nay), Java (thuộc Indonesia ngày nay) đều trở thành
chư hầu và đều có nghĩa vụ nộp cống cho Đại Việt. Tuy Đại Việt vẫn giữ thói
quen xưa là xưng thần với nhà Minh nhưng với thanh thế lững lẫy của mình lúc đó
khiến nhà Minh vẫn không dám khinh động mà dùng lễ để đối đãi với Đại
Việt.
·
Lê Hiến Tông (1497 – 1504) : năm 1947, vua
Thánh Tông băng hà, con trưởng là Lê Tranh lên kế vị, tức Lê Hiến Tông. Ông là
vị vua thông minh, nhân từ và ôn hòa nên giữ được sự thịnh trị thái bình, thiên
hạ bình an.
·
Lê Túc Tông (1504) : năm 1504 Lê Hiến Tông
bị bệnh nặng băng hà, con là Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông. Ông là vị vua
hiền, hiếu học, thân người hiền nhưng đáng tiếc là chỉ ở ngôi có 6 tháng.
·
Lê Uy Mục (1505 – 1509) : cuối năm 1504,
vua Lê Túc Tông băng hà. Theo ký thác của vua Túc Tông anh của ông là Lê Tuấn
lên kế vị, tức Lê Uy Mục. Uy Mục là một hôn quân ăn chơi sa đọa, ham mê tửu
sắc, tàn bạo giết hại nhiều trung thần khiến quần thần phẩn nộ.
·
Lê Tương Dực (1509 – 1516) : năm 1509 Giản Tu công
Lê Oanh là cháu nội vua Thánh Tông, con của Kiến Vương Lê Tân nổi dậy đem quân
đánh Đông Kinh (Hà Nội), bắt giết Lê Uy Mục. Sau đó Oanh lên ngôi vua, tức Lê
Tương Dực. Vua ban đầu còn chăm lo việc nước, sau ăn chơi vô độ làm triều đình
rối ren, phản loạn khắp nơi.
·
Lê Chiêu Tông (1516 – 1522) : năm 1516 Trịnh
Duy Sản đã giết chết vua Tương Dực, lập con người anh của Tương Dực là Lê Y lên
làm vua, tức Lê Chiêu Tông. Lúc này quyền thần họ Trần, Trịnh, Mạc lộng hành,
nổi loạn khắp nơi.
·
Lê Cung Hoàng (1552 – 1527) : năm 1522 trước loạn
quyền thần Mạc Đăng Dung, vua Chiêu Tông phải trốn đi. Dung liền lập em của
Chiêu Tông là Lê Xuân lên ngôi, tức Lê Cung Hoàng. Vua Cung Hoàng chỉ là vị vua
bù nhìn được Mạc Đăng Dung dựng lên để được chính danh. Năm 1526 Mạc Đăng Dung
giết được Chiêu Tông, nửa năm sau họ Mạc ép Cung Hoàng nhường ngôi và bất tử
chết. Từ đây nhà Lê chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, không còn thực quyền. Đất
nước bị chia cắt thành Nam-Bắc triều.
Nhà Hậu Lê – Lê Trung Hưng (1527 – 1592) / Nam – Bắc
triều
Năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, thành lập nhà Mạc (Bắc triều). Năm
1533, Nguyễn Kim không phục nhà Mạc nên đã bỏ vào Thanh Hoá, đón Lê Duy Ninh về
lập làm hoàng đế, tức Lê Trang Tông (Nam Triều). Cuộc chiến của Nam-Bắc triều
kéo dài đến năm 1592 thì Trịnh Tùng đã chiếm được Thăng Long, kết thúc thời kỳ
Nam – Bắc triều.
Bắc triều
·
Mạc Đăng Dung (1527 – 1529) : sau khi cướp ngôi của
Cung Hoàng, Mạc Đăng Dung tự xưng hoàng đế, tức Mạc Thái Tổ. Chiếm đóng ở phía
Bắc nên sử gọi là Bắc Triều.
·
Mạc Đăng Doanh (1529 – 1540) : năm 1529 Mạc
Đăng Dung nhường ngôi cho con trưởng là Mạc Đăng Doanh, tức Mạc Thái Tông, để
lên làm Thái Thượng hoàng. Đăng Doanh được coi là vị vua có tài văn trị. Trong
thời gian ông cai trị miền Bắc dân chúng ấm no, ngoại xâm phương Bắc cũng không
dám lấn sang.
·
Mạc Phúc Hải (1540 – 1546) : năm 1540, Mạc Đăng
Doanh mất, Mạc Đăng Dung lập cháu nội của mình là Mạc Phúc Hải nối ngôi, tức
Mạc Hiến Tông.
·
Mạc Phúc Nguyên (1546 – 1561) : năm 1546 Mạc
Phúc Hải lâm bệnh mất, con là Mạc Phúc Nguyên lên thay, tức Mạc Tuyên
Tông.
·
Mạc Mậu Hợp (1560 – 1592) : năm1561 Mạc Phúc
Nguyên bị bệnh đậu mùa mất, con nhỏ là Mạc Mậu Hợp lên thay. phụ chính là Khiêm
Vương Mạc Kính Điển. Trong thời gian này chiến sự rất ác liệt giữa Bắc Triều và
Nam Triều.
·
Mạc Toàn (1592 – 1593) : năm 1592 trước
thế tiến công như vũ bão của Nam Triều, Mạc Mậu Hợp nhường ngôi cho con là Mạc
Toàn, còn mình thì thân chinh ra trận. Nhưng uy thế Nam Triều rất mạnh nên cũng
chỉ đến năm 1593 quân Lê – Trịnh đã bắt và giết được Mạc Toàn kết thúc thời kỳ
Nam – Bắc triều mở ra thời kỳ phân liệt khác (Đàng Ngoài – Đàng Trong) cũng như
hy hữu nhất của Đại Việt (vua Lê – chúa Trịnh). Một số tàn dư nhà Mạc rút lên
Cao Bằng vẫn chống đối với triều Lê – Trịnh cho đến khi bị tiêu diệt hết vào
năm 1677).
Nam triều
·
Lê Trang Tông (1533 – 1548) : năm 1533 cựu
thần nhà Hậu Lê là Nguyễn Kim không phục nhà Mạc nên đã vào Thanh Hóa thành lập
lực lượng rồi đón Lê Duy Ninh về lập làm hoàng đế, tức Lê Trang Tông, phục hưng
nhà Lê. Sử sách ghi Trang Tông là con vua Chiêu Tông (?) nhưng cũng có luồn tư
tưởng khác nói Trang Tông là con riêng của Nguyễn Kim (?). Vua Trang Tông còn
được dân gian gọi là chúa Chổm.
·
Lê Trung Tông (1548 – 1556) : năm 1548 vua Trang
Tông mất, con là Lê Duy Huyên lên nối ngôi, tức Lê Trung Tông.
·
Lê Anh Tông (1556 – 1573) : năm 1556, vua
Trung Tông mất mà không có con nối dõi nên phụ chính Trịnh Kiểm chọn Lê Duy
Bang lên ngôi, tức Lê Anh Tông. Lúc này quyền lực nhà họ Trịnh đang rất lớn,
vua Anh Tông đã nhìn thấy được cái họa của quyền thần nên âm thầm loại bỏ nhưng
kế hoạch không thành.
·
Lê Thế Tông (1573 – 1599) : khi kế hoạch
loại bỏ quyền lực của nhà họ Trịnh bị thất bại vua Lê Anh Tông phải bỏ trốn và
sau đó bị sát hại. Trịnh Tùng đưa người con nhỏ của Anh Tông là Lê Duy Đàm lên
ngôi, tức Lê Thế Tông. Lúc này Trịnh Tùng đã đánh bại được nhà họ Mạc (Bắc
triều) nên quyền lực thực sự nằm trong tay họ Trịnh, vua chỉ là bù nhìn bắt đầu
thời kỳ vua Lê – chúa Trịnh hy hữu trong lịch sử Việt Nam và cũng mở đầu thời
kỳ đất nước bị phân liệt một cách sâu sắc nhất thành Đàng Ngoài và Đàng
Trong.
Nhà Hậu Lê – Lê Trung Hưng (1593 – 1778) / Đàng ngoài
– Đàng trong
Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị đầu độc chết, quyền lực rơi vào tay con rể
là Trịnh Kiểm. Để giữ vững binh quyền của mình Trịnh Kiểm đã ra tay loại bỏ anh
em vợ. Em vợ của Trịnh Kiểm là Nguyễn Hoàng sợ bị sát hại nên đã xin vào Nam
trấn thủ Thuận Hóa (từ Quãng Trị đến Thừa Thiên-Huế ngày nay). Năm 1592, sau
khi Trịnh Tùng là con của Trịnh Kiểm lật đổ được nhà Mạc, quyền hành tập trung
trong tay nhà họ Trịnh. Lúc này Trịnh Tùng mới bắt đầu “nghĩ” đến người cậu
trong Nam là Nguyễn Hoàng. Năm 1627, Trịnh Tráng đem quân vào Nam đánh Nguyễn
Phúc Nguyên chính thức mở đầu cho cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn. Sau thời gian
dài giằng co, đến năm 1672 hai bên tạm thời ngừng chiếm và lấy sông Gianh làm
giới tuyến. Trên danh nghĩa vua Lê vẫn là người đứng đầu đất nước.
Lê Trung Hưng
·
Lê Kính Tông (1599 – 1619) : năm 1599 Lê Thế Tông
mất, con thứ là Lê Duy Tân lên thay, tức Lê Kính Tông.
·
Lê Thần Tông (1619 – 1643 và 1649 – 1662) : năm 1619, vua Kính
Tông hợp mưu cùng Trịnh Xuân là con của Trịnh Tùng giết chết Trịnh Tùng để
giành lại quyền lực. Kế hoạch không thành, vua bị ép thắt cổ chết. Con trưởng
là Lê Duy Kỳ lên ngôi, tức Lê Thần Tông. Ông là vị vua đặc biệt trong lịch sử
Việt Nam vì làm vua đến 2 lần và giống như vua Trần Minh Tông, vua Lê Thần Tông
có 4 người con đều làm vua. Năm 1643 ông nhường ngôi cho con trưởng là Lê Duy
Hựu, tức Lê Chân Tông, còn ông làm Thái Thượng Hoàng. Năm 1649 Lê Chân Tông
mất, ông lại trở về làm vua đến 1662 thì mất.
·
Lê Chân Tông (1643 – 1649) : năm 1643, vua
Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu, tức Lê Chân Tông.
·
Lê Huyền Tông (1663 – 1671) : năm 1662 vua Thần Tông
yểu mệnh qua đời, con là Lê Duy Vũ lên nối ngôi, tức Lê Huyền Tông.
·
Lê Gia Tông (1672 – 1675) : năm 1671 vua
Huyền Tông yểu mệnh qua đời lúc 18 tuổi nhưng không có con nối ngôi nên người
em của vua Huyền Tông là Lê Duy Cối lên thay, tức Lê Gia Tông.
·
Lê Hy Tông (1675 – 1705) : năm 1675 vua Gia
Tông yểu mệnh qua đời lúc 15 tuổi. Vì vua không có con nối dõi nên Trịnh Tạc
bèn lập em vua là Lê Duy Hiệp lên ngôi, tức Lê Hy Tông.
·
Lê Dụ Tông (1705 – 1729) : năm 1705 vua Hy
Tông nhường ngôi cho con là thái tử Lê Duy Đường, tức Lê Dụ Tông, còn mình lên
làm Thái Thượng hoàng.
·
Lê Duy Phường (1729 – 1732) : năm 1729 vua Dụ
Tông bị Trịnh Cương ép nhường ngôi cho con là Thái tử Lê Duy Phường.
·
Lê Thuần Tông (1732 – 1735) : năm 1732 Trịnh
Giang phế bỏ Lê Duy Phường xuống làm Hôn Đức Công, lập anh của Duy Phường là Lê
Duy Tường lên ngôi, tức Lê Thuần Tông.
·
Lê Ý Tông (1735 – 1740) : năm 1735 Lê
Thuần Tông mất, Trịnh Giang lại lập em của Thuần Tông là Lê Duy Thận lên ngôi,
tức Lê Ý Tông.
·
Lê Hiển Tông (1740 – 1786) : năm 1740 Trịnh
Doanh ép vua Ý Tông nhường ngôi cho con trưởng của vua Thuần Tông là Lê Duy
Diêu, tức Lê Hiển Tông.
·
Lê Mẫn Đế (1787 – 1788) : năm 1786 Nguyễn
Huệ đem quân ra Bắc đánh đổ Trịnh Khải, lúc này thực quyền nằm trong tay Nguyễn
Huệ. Năm 1787 vua Hiển Tông mất, Nguyễn Huệ với sự góp ý của vợ là Ngọc Hân
công chúa đã lập Lê Duy Kỳ lên làm vua, tức Lê Mẫn Đế hay Lê Chiêu Thống. Đây
cũng là vị vua cuối cùng của nhà Lê và cũng là vị vua bị chỉ trích rất dữ dội
vì đã từng qua cầu viện quân nhà Thanh về đánh quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ.
Hành vi này bị xem là “cõng rắn cắn gà nhà” của Chiêu Thống.
Các chúa Trịnh ở Đàng ngoài
·
Bình An Vương – Trịnh Tùng (1623 – 1652) : Trịnh Tùng là
con thứ của Trịnh Kiểm, là người có công đánh đổ nhà Mạc, lấy lại chính quyền
cho nhà Lê. Ông được coi là vị chúa Trịnh đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Ông
cũng là người kết thúc cho thời kỳ Nam-Bắc triều và mở ra thời kỳ Trịnh-Nguyễn
phân tranh.
·
Thanh Đô Vương – Trịnh Tráng (1623 – 1652) : năm 1623 Trịnh Tùng
lâm bệnh nặng và mất, con là Trịnh Tráng lên thay. Ông đã 4 lần phát quân đánh
với chúa Nguyễn ở Đàng Trong nhưng chỉ toàn thất bại nên phải rút về.
·
Tây Đô Vương – Trịnh Tạc (1653 – 1682) : năm 1653, Trịnh
Tráng phong Trịnh Tạc làm Tây Đô Vương. Năm 1657, chúa Nguyễn đem quân vượt
sông Gianh đánh Bắc Bố Chính và chiếm được 7 huyện Nam Hà. Trong lúc chiến sự
gay go thì Trịnh Tráng mất, con là Trịnh Tạc lên thay. Ông cùng với con trai là
Trịnh Căn, phản công với quân của chúa Nguyễn giành lại được Bắc Hà vào năm
1660.
·
Định Vương – Trịnh Căn (1682 – 1709) : năm 1682 Trịnh Tạc
mất, con là Trịnh Căn lên thay. Ông là người có tài cả về quân sự lẫn văn trị.
Ông từng cầm quân giành lại đất Bắc Hà từ tay chúa Nguyễn. Ông cũng là người
khôn khéo trong ngoại giao khi buộc nhà Thanh phải trả lại các vùng đất bị quan
trấn thủ nhà Thanh chiếm ở vùng biên giới. Thời gian ông cầm quyền có thể nói
là thời kỳ thịnh vượng nhất ở Đàng Ngoài.
·
An Đô Vương – Trịnh Cương (1709 – 1729) : năm 1709 Trịnh
Căn qua đời, vì con và cháu nội đích truyền đều đã mất, nên chắc là Trịnh Cương
lên thay. Ông kế vị trong hoàn cảnh đất nước thái bình, thịnh trị, không có nạn
đao binh. Ông sớm tỏ ra là người chín chắn, tận tụy khi tiếp quản cơ nghiệp của
tổ tiên và củng cố thêm nền cai trị ở Đàng Ngoài.
·
Uy Nam Vương – Trịnh Giang (1729 – 1740) : năm 1740 Trịnh
Cương đột ngột qua đời, con là thái tử Trịnh Giang lên thay. Giang là người
ương hèn, lại ham mê hưởng lạc khiến cho quần thần bất mãn, giặc giã nổi loạn
khắp nơi, nền chính trị ở Bắc Hà lung lay dữ dội. Có lần Trịnh Giang bị sét
đánh gần chết. Từ đó mắc bệnh “kinh quý”, tâm thần hoảng loạn, phải cho xây
cung Thưởng Trì xuống lòng đất để ở.
·
Minh Đô Vương – Trịnh Doanh (1740 – 1767) : năm 1740, các quần
thần trong triều hợp sức đồng lòng lập Trịnh Doanh là em của Trịnh Gianh lên
làm chúa, tức Minh Đô Vương. Doanh từ nhỏ đã sớm biểu hiện là người văn tài võ
lược. Khi lên ngai vương, ông đã lập tức sửa sang lại những gì mà Trịnh Giang
đã làm sai như phế bỏ vua Lê Duy Phường, lập vua Lê Duy Tường, đánh dẹp các
cuộc khởi nghĩa nông dân ở Đàng Ngoài.
·
Tĩnh Đô Vương – Trịnh Sâm (1767 – 1782) : năm 1767, Trịnh
Doanh mất, con là thái tử Trịnh Sâm lên thay. Từ nhỏ Sâm đã được nuôi dạy rất
cẩn thận nên khi trưởng thành là người văn võ toàn tài, tính tình cứng rắn,
thông minh và quyết đoán. Ông cũng là vị chúa đầu tiên và duy nhất ở Đàng Ngoài
đánh chiếm được vùng Thuận Hóa của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nhưng sau khi
thắng trận lại tỏ ra kiêu căng tự phụ.
·
Điện Đô Vương – Trịnh Cán (2 tháng trong năm
1782) : năm 1767, Trịnh Sâm mất, con là Trịnh Cán còn nhỏ lại hay đau bệnh lên
thay.
·
Đoan Nam Vương – Trịnh Khải (1782 – 1786) : sau khi Trịnh Sâm mất,
Trịnh Khải là con trai trưởng muốn cướp ngôi nên đã xúi giục bọn kiêu binh ở
Tam phủ nổi loạn, phế Cán lập Khải lên ngôi. Lúc này Bắc Hà rơi vào nạn kiêu
binh nổi loạn, cướp phá khắp nơi.
·
Án Đô Vương – Trịnh Bồng (1787 – 1788) : năm 1786, nghĩa quân
Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo tiến đánh Bắc Hà. Quân Trịnh Khải chống cự yếu
ớt và bị đánh tan tác. Bản thân Trịnh Khải bị bắt và tự tử ngay sau đó. Để cứu
cơ nghiệp của nhà Trịnh, Trịnh Bồng là bác họ của Trịnh Khải tập hợp các tướng
lĩnh cũ để mưu đồ việc lớn. Nhưng sau nhiều lần thất bại ông đã từ bỏ ngai
vương, chọn cuộc sống tu hành rồi trốn đời biệt tích. Ông là vị Trịnh vương
cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Các chúa Nguyễn ở Đàng trong
·
Sãi vương – Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635) : ông là con thứ 6
của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng – người có công khai phá mở mang bờ cõi ở phương
Nam. Ông là người có tài về quân sự, chính trị và ngoại giao. Trong thời gian
cai trị ông đã cố gắng xây dựng xứ Đàng Trong độc lập, tự chủ, hoàn toàn ly
khai với Đàng Ngoài. Ông cũng là người 2 lần đánh bại cuộc tiến công của chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài. Ông cũng được dân gian gọi là chúa Sãi (Sãi vương), hay
chúa Bụt (Phật vương).
·
Thượng vương – Nguyễn Phúc Lan (1635 – 1648) : năm 1635 Sãi
vương qua đời, con thứ 2 là Nguyễn Phúc Lan lên thay. Ông cũng được gọi là chúa
Thượng (Thượng vương).
·
Hiền vương – Nguyễn Phúc Tần (1648 – 1687) : năm 1648, Thượng vương
đột ngột qua đời trong khi có chiến sự với Đàng Ngoài. Nguyễn Phúc Tần là con
lên thay. Ông là vị chúa đầu tiên và duy nhất ở ĐàngTrong chủ động cho quân
vượt sông Gianh đánh Đàng Ngoài và chiếm được Nam Hà. Sau thời gian giằng co
với quân Trịnh, năm 1672 hai bên chính thức đình chiến, lấy sông Gianh làm biên
giới. Về đối nội ông là người chăm lo chính sự, xa rời nữ sắc và coi trọng hiền
tài nên ông được dân gian gọi là chúa Hiền (Hiền vương).
·
Nghĩa vương – Nguyễn Phúc Thái (1687 – 1691) : năm 1687 Hiền
vương qua đời, con là Nguyễn Phúc Thái lên thay. Phúc Thái nổi tiếng là người
nhân nghĩa, rộng lượng, là vị chúa có tài. Ông trọng dụng hiền tài, giảm nhẹ
hình phạt, thuế khóa khiến trăm họ đều vui nên dân gian gọi ông là chúa Nghĩa
(Nghĩa vương).
·
Minh vương – Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) :năm 1691, Nghĩa vương qua
đời, con là Nguyễn Phúc Chu lên thay. Ông là một vị chúa có hiền và có tài nên
dân gian gọi là chúa Minh (Minh vương hay Quốc chúa Minh vương). Nối nghiệp
tiền nhân, ông mở mang bờ cõi xuống phía Nam đến tận Hà Tiên. Ông cũng là người
rất coi trọng hiền thần, thích lời ngay thẳng, bỏ xa hoa, giảm nhẹ thuế má,
ngục hình.
·
Ninh vương – Nguyễn Phúc Thụ (1725 – 1738) : năm 1725 Nghĩa
vương qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Thụ tiếp ngôi. Thụ từ nhỏ đã là người
văn võ toàn tài. Ông đã có công đánh đuổi quân Chân Lạp quấy nhiễu và lấy được
đất ở Vĩnh Long và Mỹ Tho. Ông đặt ra các đơn vị hành chánh để quản lý, giữ gìn
và mở mang vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ông được dân gian gọi là chúa Ninh
(Ninh vương).
·
Võ vương – Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) : năm 1738, Ninh
vương qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Khoát lên thay. Ông là người thông
minh, cương nghị, dứt khoát đôi khi tàn nhẫn. Ông là người có công rất lớn
trong công cuộc Nam tiến và lấy được rất nhiều vùng đất đai màu mỡ như : Tân
An, Gò Công, Sóc Trăng, Trà Vinh, Châu Đốc, Sa Đét. Dân gian thường gọi ông là
chúa Võ (Võ vương).
·
Định vương – Nguyễn Phúc Thuần (1765 – 1777) : năm 1765, Võ vương qua
đời, quyền thần Trương Phúc Loan nắm hết quyền hành. Phúc Loan phế ngôi của
củaNguyễn Phúc Luân và đưa Nguyễn Phúc Thuần lúc đó còn nhỏ lên thay. Lúc này
khởi nghĩa Tây Sơn nổi dậy cùng với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đánh chiếm Thuận
Hóa và tiến về Nam Bộ. Năm 1777, Phúc Thuần bị quân Tây Sơn bắt và giết chết ở
Long Xuyên. Ông là vị chúa cuối cùng của nhà Nguyễn ở Đàng Trong trong thời kỳ
Trịnh-Nguyễn phân tranh này. Dân gian gọi ông là chúa Định (Định vương).
Nhà Tây Sơn
Năm 1771 anh em nhà Tây Sơn phất cờ khởi nghĩa ở Đàng Trong đến năm 1778
thì dành được chiến thắng.
·
Thái Đức (1778 – 1788) : năm 1771, Nguyễn
Nhạc cùng 2 người em của mình là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ khởi nghĩa ở ấp Tây
Sơn. Đến năm 1788 khởi nghĩa thắng lợi, Nguyễn Nhạc tự xưng là Thái Đức Hoàng
Đế lập ra nhà Tây Sơn.
·
Quang Trung (1788 – 1792) : tình hình trong thời
kỳ này rất rối ren phức tạp. Hậu duệ của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Ánh – con
của Nguyễn Phúc Luân, vẫn còn muốn lấy lại cơ nghiệp của các chúa Nguyễn nên
sau khi chạy thoát đã cầu viện vua Xiêm mang quân sang đánh với nhà Tây Sơn năm
1784. Đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đã cho phục binh ở Rạch Gầm – Xoài Mút đánh tan
liên minh Xiêm – Nguyễn. Năm 1786 khi chưa được lệnh anh là Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ đã tự ý đem quân đánh Bắc Hà lật đỗ họ Trịnh ở Đàng Ngoài. Lúc này nảy sinh
mâu thuẫn giữa anh em nhà Tây Sơn. Năm 1788, Lê Chiêu Thống đã “cõng rắn cắn gà
nhà” chạy sang cầu viện quân Thanh đêm 29 vạn quân về chiếm Thăng Long. Trong
tình cảnh này Nguyễn Huệ buộc phải lên ngôi Hoàng đế, tức Quang Trung Hoàng đế.
Sau đó với tài năng quân sự kiệt xuất của mình Quang Trung đã chỉ huy quân Tây
Sơn đánh tan 29 vạn quân Thanh xâm lược. Nguyễn Nhạc lúc này xưng là Tây Sơn
vương.
·
Cảnh Thịnh (1793 – 1802) : năm 1792, Quang
Trung hoàng đế đột ngột băng hà bỏ lại nhiều hoài bão chưa hoàn thành, con thứ
là Nguyễn Quang Toản lên ngôi, tức Cảnh Thịnh. Lúc này nội bộ trong triều rối
ren, họa ngoại thích luôn rình rập. Năm 1793, Nguyễn Ánh đem quân đánh Quy
Nhơn, Nguyễn Nhạc cầu viện Cảnh Thịnh. Cảnh Thịnh đem quân đánh Nguyễn Ánh và
chiếm luôn Quy Nhơn khiến Nguyễn Nhạc uất hận mà qua đời. Năm 1802, Quang Toản
bị Nguyễn Ánh đánh bại, bị bắt và dùng cực hình xử tử, kết thúc triều đại Tây
Sơn oanh liệt. Cũng từ đây đất nước lại thống nhất về một mối và mở ra triều
đại mới, triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam – nhà
Nguyễn.
Nhà Nguyễn – Thời kỳ độc lập tự chủ (1802 –
1883)
·
Gia Long (1802 – 1820) : năm 1777 Nguyễn
Ánh là hậu duệ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã chạy thoát trước sự truy sát của
quân Tây Sơn. Ông sông lưu vong ở Xiêm La một thời gian. Dưới sự giúp đỡ của
Xiêm La và Pháp, năm 1802 Nguyễn Ánh tập trung lực lượng đánh chiếm Nam Hà, sau
đó đánh bại nhà Tây Sơn lập nên triều Nguyễn thống nhất giang san rộng lớn từ
Nam chí Bắc. Ông lên ngôi hoàng đế, tức Gia Long, đặt tên nước là Việt Nam. Có
nhiều luồng nhận xét trái chiều về con người Nguyễn Ánh – Gia Long nhưng khách
quan mà nhận xét ông là người rất có nghị lực và có công thống nhất đất nước
sau 3 thế kỷ bị chia cắt. Tuy ông đã từng dựa vào ngoại bang như Xiêm La, Pháp
nhưng ông là người ý thức tự chủ dân tộc rất cao. Tuy nhiên ông cũng là người
tàn nhẫn khi cho phá nát mộ phần của nhà Tây Sơn và giết chết công thần khai
quốc vì những chuyện cỏn con.
·
Minh Mạng (1820 – 1840) : năm 1820, vua
Gia Long bệnh nặng qua đời, con là Nguyễn Phúc Đảm lên thay, tức Minh Mạng. Ông
là vị vua thông minh, quyết đoán. Dưới thời của ông, đất nước trở nên thịnh
vượng và hùng mạnh có lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng
có tham vọng biến nước Việt Nam thành một cường quốc nên đã đặt tên nước là Đại
Nam.
·
Thiệu Trị (1841 – 1847) : cuối năm 1820,
vua Minh Mạng băng hà, con trưởng là Nguyễn Phúc Miên Tông lên thay, tức Thiệu
Trị. Ông là người cần mẫn chăm lo việc nước nhưng không năng động nên chỉ áp
dụng những gì đã có thời Minh Mạng mà không có cải cách nào đáng chú ý.
·
Tự Đức (1847 – 1883) : năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà,
con thứ là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên ngôi. Ông là vị vua tốt, cần mẫn nhưng
cũng giống các vị tiên đế khác, ông là người theo trường phái Tống nho lạc hậu,
bảo thủ và hủ lậu so với đương thời. Thời gian ông trị vì đất nước có nhiều
biến cố. Năm 1858, Pháp đem chiến thuyền đến Đà Nẵng bán phá. Năm 1862, Pháp
đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ là Biên Hòa, Gia Định và Định Tường. Năm
1867, Pháp đánh chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Bộ là : Vĩnh Long, An Giang và Hà
Tiên. Năm 1873, Pháp đánh chiếm 4 tỉnh miền Bắc là : Hà Nội, Nam Định, Ninh
Bình và Hải Dương. Năm 1874, ký hòa ước công nhận toàn bộ Nam Kỳ là thuộc Pháp.
Năm 1883, ký hiệp ước với Pháp với nội dung là xác nhận toàn bộ quyền bảo hộ
dài hạn của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ. Đất nước ta lại rơi vào tay ngoại
xâm.
Nhà Nguyễn – Thời kỳ Pháp thuộc (1883 – 1945)
·
Dục Đức (3 ngày, 1883) : năm 1883, vua Tự
Đức mất vì vua không có con nối dỗi nên đã nhận 3 người cháu làm con nuôi. Thái
tử Nguyễn Phúc Ưng Chân lên thay nhưng chỉ sau 3 ngày đã bị phế truất.
·
Hiệp Hòa (6 tháng, 1883) : sau khi phế Dục
Đức, 2 quan phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã cho đón con thứ
của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Hồng Dật lên ngôi, tức Hiệp Hòa. Nhưng do lập trường
của Hiệp Hòa và 2 quan phụ chính trái ngược nhau nên vua chỉ ở ngôi được 6
tháng thì bị phế.
·
Kiến Phúc (1883 – 1884) : sau khi phế Hiệp
Hòa, người con thứ 3 của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Ưng Đăng lên ngôi, tức Kiến
Phúc. Sau 8 tháng ở ngôi vua, Kiến Phúc đã lâm bệnh nặng và mất khi mới 15
tuổi.
·
Hàm Nghi (1884 – 1885) : sau khi vua Kiến
Phúc mất, 2 quan phụ chính lại đưa em của Kiến Phúc là Nguyễn Phúc Ưng Lịch lên
ngôi lúc 13 tuổi, tức Hàm Nghi. Ông tuy nhỏ tuổi nhưng đã nhận thức rất sâu sắc
về nỗi đau đất nước. Khi bi Pháp vay hãm, ông đã 2 lần ra chiếu Cần Vương. Ông
là tấm gương sáng cho dân tộc.
·
Đồng Khánh (1885 – 1888) : năm 1885, vua
Hàm Nghi thoát ly triều đình, kéo cờ khởi nghĩa, ra chiếu Cần Vương, tập hợp
lực lượng để chống Pháp. Thống tướng người Pháp De Courcy xin ý kiến của Hoàng
Thái Hậu Từ Dũ để lập người con nuôi khác của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ
lên ngôi, tức Đồng Khánh.
·
Thành Thái (1889 – 1907) : năm 1889, vua
Đồng Khánh bị bệnh qua đời, Tổng sứ Trung Bắc Kỳ chọn Nguyễn Phúc Bửu Lân là
con vua Dục Đức lên nối ngôi, tức Thành Thái. Ông là người có suy nghĩ tiến bộ,
thời đại lại là người có ý thức dân tộc rất cao nên không được lòng người
Pháp.
·
Duy Tân (1907 – 1916) : năm 1907, chính phủ
Pháp nhận thấy vua Thành Thái là người có ý thức dân tộc cao nên đã cho tung
tin vua bị bệnh “thần kinh” và đưa đi lưu đày. Con nhỏ của vua Thành Thái là
Nguyễn Phúc Vĩnh San được đưa lên ngôi khi 8 tuổi, tức Duy Tân. Càng lớn, cũng
giống như cha mình, vua ý thức được vận mệnh của đất nước, của dân tộc. Vua đã
từng dự định cùng khởi nghĩa với Việt Nam Quang Phục Hội của Trần Cao Vân nhưng
sự việc chưa tiến hành thì đã bị lộ.
·
Khải Định (1916 – 1925) : năm 1916, Pháp buộc
tội vua Duy Tân và đưa đi lưu đày. Người Pháp đã chọn Nguyễn Phúc Bửu Đảo là
con trưởng vua Đồng Khánh lên ngôi, tức Khải Định. Khải Định là người ương hèn,
nhu nhược, chỉ lo ăn chơi, lại luôn nịnh bợ người Pháp nên rất được lòng nhà
cầm quyền Pháp bấy giờ.
·
Bảo Đại (1926 – 1945) : năm 1925, Khải Định
mất. Năm 1926 Bảo Đại lên ngôi vua. Năm 1945, sau khi cách mạng tháng 8 thành
công, Bảo Đại chính thức thoái vị, trao ấn tín và kiếm bạc nạm ngọc cho Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa, chính thức trở thành “công dân Vĩnh Thụy”. Ông là vị
hoàng đế cuối cùng của triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam.
Thời kỳ đổi mới ( 1945 – nay)
·
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1945 – 1976) : năm 1945 dưới sự
lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, quân dân ta đã đánh đổ đế quốc Pháp và phát-xít
Nhật. Vào ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập tại
quãng trường Ba Đình, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với thủ đô là
Hà Nội.
·
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (1976 – nay) : năm 1954, VNDCCH
đã đánh tan ý chí xâm lược lần 2 của thực dân Pháp bằng chiến thắng Điện Biên
Phủ vang dội khắp 5 châu, buộc Pháp phải ngồi vào bàn ký hiệp định Geneve công
nhận độc lập chủ quyền và rút quân ra khởi Đông Dương. Cũng trong năm này Mỹ đã
thay chân Pháp nhảy vào miền Nam, thành lập chính phủ bù nhìn Việt Nam Cộng
Hòa. Sau khi tiến hành nhiều cuộc chiến tranh mà không dành được thắng lợi đến
năm 1973 Mỹ buộc phải ngồi vào bàn ký hiệp định Paris. Hiệp định này có ý nghĩa
để Mỹ rút chân ra khỏi miền Nam Việt Nam trong danh dự. Năm 1975, quân giải
phóng miền Nam đã tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào Sài Gòn, đánh đổ
chính quyền VNCH, thống nhất đất nước. Năm 1976, tên nước chính thức là Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, Đảng Lao Động Việt Nam được đổi thành Đảng Cộng
Sản Việt Nam, thủ đô là Hà Nội, Sài Gòn được đổi tên thành Thành phố Hồ Chí
Minh.
Nguồn tham khảo:
http://www.lichsuvietnam.info/
----- Hết -----
Nguồn bài viết: https://maigiatrang.wordpress.com/2011/08/24/tom-luoc-lich-su-viet-nam-qua-cac-thoi-dai/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét