Lời dạy của đức Phật về Lục hoà - 6 phép hòa kính
(Hòa thượng Thích Thiện Hoa)
https://thuvienhoasen.org/a27001/phap-luc-hoa
Trong gia đình, anh em không hòa, thì cốt nhục chia ly. Vợ chồng không hòa,
gia nghiệp chẳng thành, con cái đau khổ. Xóm làng không hòa, sinh ra cãi vã
kiện cáo. Quốc gia không hòa sanh ra giặc giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân
loại bất hòa, thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn.
"Đạo nghĩa Lục hòa vốn là điều căn bản
của Phật giáo. Thân hòa cùng ở; miệng hòa không cãi nhau; ý hòa cùng vui vẻ; giới
hòa cùng tu; kiến hòa cùng giải - thấy biết kiến thức thì chia sẻ cho nhau hiểu;
lợi hòa cùng chia - có của cải, lợi ích thì chia nhau không ai tranh tham phần
hơn cho mình. Vui với đạo pháp mà quên hết phiền não, xóa bỏ đau khổ cho mình
và người khác. Nếu tinh thần lục hòa của Phật giáo mà được đem áp dụng vào đời
thì trên từ quốc gia, dưới đến gia đình, khắp nơi đều an lạc vui vầy."
Tai hại của sự bất hòa
Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có gì tai hại bằng sự bất
hòa. Sự bất hòa làm ung độc cuộc sống chung và bắt buộc người ta phải xa nhau,
nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau.
Trong gia đình, anh em không hòa, thì tình cốt nhục chia ly. Vợ chồng không hòa, thì gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ; gần mẹ thì phải xa cha. Xóm làng không hòa thì hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không hòa thì sanh ra giặt giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bât shòa, thì chiến tranh tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn.
Sự quan trọng của nhu hòa
Đã thấy sự bất hòa như thế nào, tất nhiên cũng phải thấy đức tánh nhu hòa
là cần thiết như thế nào cho đời sống tập thể.
Chúng ta thường nghe nói: “Dĩ hòa vi qúi”
(lấy hòa làm quý). Bốn chữ giản dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng.
Những ai lấy nó làm phương châm, thì bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành tựu
dễ dàng. Trái lại, những ai khinh thường nó, thì công việc chung không bao giờ
có kết quả.
Sách Nho cũng có nói: “Thời thế thuận, không bằng
địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm hòa” (thiên thời bất
như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa). Xem thế thì đủ biết: yếu tố hòa là
quan trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đình hòa thì gia đình có
hạnh phúc; nước nhà hòa thì nước nhà được thạnh trị; nhơn loại hòa thì thế giới
an lạc.
Lục hòa là sáu
phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói
đến việc làm. Hòa ở đây là hòa với mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường
giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ không phải hòa một cách nhu nhược, thụ
động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải cũng gật.
Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu
hòa trong đời sống tập thể, đức Phật đã chế ra pháp “Lục hòa” cho
hàng Phật tử.
Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với
nhau cho hòa hợp từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây
là hòa với mục đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện
toàn mỹ, chứ không phải hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ,
ai nói phải cũng gật.
Hòa ở ở đây cũng không phải là
phương tiện trong giai đoạn để rút thắng lợi về mình, rồi lại chiến. Hòa ở đây
nhằm mục đích làm lợi cho tất cả, gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy có bòng
dáng “tự và tha” không có so đo “ta và người”.
Lục Hòa gồm những gì?
Lục hòa gồm có sáu điểm sau đây:
1. Thân hòa cùng ở (Thân hòa đồng
trú)
Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm vi, một tổ chức, hôm
sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành.
Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa thuận với nhau,
không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là anh em, vợ
chồng, con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh ra anh, em
ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự, hiếp đáp,
sát phạt nhau.
Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một mái chùa, thì tuy là
không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung của đức Phật, cùng
một lý tưởng mục đích, thì cũng phải lấy cái hòa khí làm đầu, không được chia
phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy được.
Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xã hội, thì phải lấy sự
đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt, chia năm xẻ bảy, làm
thành giặc chòm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau. Người nước ta có câu
ca dao rất có ý nghĩa:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn”.
Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa thuận, thương yêu
nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống nòi !
Cũng thể, đã là nhân loại, cùng chung sống trên quả
địa cầu nầy, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là “Tứ
hải giai huynh đệ” cả. Đã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra
chiến trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô trí, thì thật
là vô cùng phi lý.
Tóm lại, đã cùng chung sống với nhau trong một địa vị, một giới hạn, một
hoàn cảnh, thì bao giờ cũng phải hòa hảo với nhau.
2. Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi
nhau (khẩu hòa vô tránh)
Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau, khi ở bên cạnh nhau,
thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong mọi trường hợp, nhất
thiết không được rầy rad, cãi cọ nhau.
Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng câu nói, tìm cách
mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối cùng sanh ra ấu đả
nhau.
Trong một gia đình, xũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi anh em xa
lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt nhau, trưỏ thành những
kẻ xã lạ, thù hằn nhau.
Trong xã hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều khi quốc gia phải lâm
nạ chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào lò sát sanh thảm khốc.
Bởi thế, nên thân thể hòa chua phải là đủ, mà Phật dạy phải hòa cả miệng
nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã với nhau, nhất thiết
không được cãi lẫy, gây gỗ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần phải bàn cãi cho ra
lẽ, thì tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn luận.
3. Ý hòa cùng vui (Ý hòa đồng duyệt)
Duy thức học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là động cơ thúc đẩy miệng và
thân. Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng đứng trước (công vi thủ, tội
vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đình, một đoàn thể, mỗi người cần giữ
gìn ý tứ, tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ
giữ được hòa khí. Trái lại nếu ý tứ bất hòa, thường trái ngược nhau, ganh ghét
nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được hòa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để
thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một uy quyền gì trên, mà phải ăn ở hòa thuận
với nhau, thì sự hòa thận này cũng chẳng khác gì một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một
tấm gỗ đã mục. Một khi sự xung đột bên trong đã đến một mức độ không thể chứa
đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra trong lời nói hay trong những cái đấm đá;
cũng như tấm gỗ khi đã mục quá rồi thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt,
đổ bể.
Đức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm ý vui vẻ hòa hiệp
trong khi chung sống với nhau.
Muốn được tâm ý hòa hiệp, phải tu hạnh Hỷ xà. Hỷ xả nghĩa là bỏ ra ngoài
những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng những lỗi lầm của kẻ
khác. Có như thế, tâm hồng mới thư thái, vui vẻ được, và ý nghĩ mới trong sáng,
thanh tịnh được. Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh hỷ xả mới được.
Trong gia đình
Phật tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm điều
luật của gia đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh trường, thì Phật tử ấy sẽ
tan rã. trong một hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp,
tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không giữ
giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học;
nếu có tình trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã.
4. Giới hòa cùng tu (Giới hòa đồng
tu)
Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất đều có kỷ luật qui
củ hẳn hoi.
Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc tu hành của mình, mà
thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia thì thọ Ngũ Giới; người xuất gia
thiì thọ 10 giới nếu là Sa Di, thọ 250 giới nếu là Tỳ kheo, thọ 348 giới nếu là
Tỳ kheo Ni…
Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu học, mỗi ngày tùy
theo cấp bậc của mình mà giữ giới. Đã cùng một cấp bực với nhau, thì tất phải
thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ giới nầy, bỏ giới
kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. Nếu có sự vô kỷ luật nầy thì
lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan rã. Vì thế, đức Phật dạy: khi Phật tử đã chung
sống với nhau, thì triệt để phải cùng nhau tu những giới luật như nhau, giữ
đúng những giới luật của cấp bực mình.
Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đình Phật tử, một hội chẳng hạn,
bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học sinh không giữ kỷ luật
của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai muốn học cứ học, ai muốn
chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập. Trong gia đình Phật tử, đoàn sinh mỗi
người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm điều luật của gia đình,
không làm theo huấn lệnh của Huynh trường, thì Phật tử ấy sẽ tan rã. trong một
hội viên không tôn trọng điều lệ của hội, phân chia giai cấp, tự cho mình sang
không cần giữ giới như người hèn, tự cho mình giàu, không giữ giới như người
nghèo, tự cho mình có học thức không giữ giới như người vô học; nếu có tình
trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã.
Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu không cùng nhau gìn giữ
giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ sống chung với nhau
được. Vậy Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì mỗi người cần phải gìn
giữ giới luật như nhau.
5. Thấy biết giải bày cho nhau hiểu
(Kiến hòa đồng giải)
Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì, khám phá được điểm
gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế trình dộ hiểu biết mới
không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần bình đẳng, mới dễ giữ
vững giữa những người cùng ở một đoàn thể.
Khi ta khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có một ý kiến gì hay ho,
nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những ta là một kẻ ích
kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những người khác. Lòng
ích kỷ và sự tắc nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bất hòa, xung đột. Trớc
một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ gây nghi ngờ,
hoang mang trong đoàn thể, vì phần đông không biết tin vào ai.
Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu, vừa đủ loại, mỗi
Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một ý nghĩa có thể
đúng, mà cũng có thể sai. Trong người trường hợp ấy, mà không gấp rút giải bày
quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu biết, thì khó mà
có thể sống hòa hiệp với nhau.
6. Lợi hòa cùng chia cân nhau (Lợi
hòa đồng quân)
Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cần nhau hay cùng nhau thọ
dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần nhiều về mình.
Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y phục, mền chiếu,
thuốc thang…thì phải đem quân phân tất cả, nghĩa là chia cho đều nhau, không vì
tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng phải lấy công bằng làm
trọng. Giữ được như thế, thì dù ở chung nghìn người cũng vẫn hòa vui. Trái lại,
nếu vì tính tư, ý riêng tham tài ham lợi thì dù chỉ có vài ba người chung sống
với nhau, cũng không thể hòa được.
Trong xã hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia
giai cấp, cũng do vì thiếu sự “Lợi hòa đồng quân” cả. Người
giàu thì giài quá, kẻ nghèo thì nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga ruộng đất cò bay
thẳng cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất. Do đó, không thể có hòa
bình được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với
nước phú cường.
Nếu nhân loại thâm hiểu rằng: Cuộc giàu sanh phú quý trong nhân gian, như
hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời như bọt nước nổi
trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ bớt đi nhiều lắm,
và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau hơn.
Với một tinh thấn bình đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ, với một tri huệ soi
thấu rõ sự vô thường, giả tạm của cuộc đời, Đức Phật đã dạy: “Có tài lợi, nên
tùy phận chia sớt cho nhau”, hay triệt để hơn nữa: “Lợi hòa đồng quân”. Chúng
ta đã là Phật tử, phải nên cố gắng thực hành cho được lời dạy ấy.
Triệt để chấp hành Lục hòa - 6
điều chỉ bảo của đức Phật:
1) Hãy chung sống với nhau một cách
hòa hợp, hãy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, chứ không nên dùng võ lực để đàn
áp nhau.
2) Hãy nói năng với nhau một
cách dịu dàng, hòa nhã; nếu có điều gì thắc mắc cần bàn cãi, thì cũng phải bàn
cãi trong ôn hòa, lễ độ.
3) Hãy nuôi dưỡng ý tốt đẹp
đối với nhau, hãy trau dồi đức hỷ xả; đừng bao giờ thù hiềm, ganh tỵ nhau.
4) Hãy giữ đúng giới luật như
nhau, hãy lấy kỷ luật làm đầu. Vô kỷ luật thì không một đoàn thể nào có thể tồn
tại được.
5) Hãy giải bày những sự hiểu
biết, những ý kiến của mình cho người chung quanh. Người thông hiểu nhiều, phải
có bổn phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt họ đi kịp mình.
6) Hãy chia đồng đều tài lợi
thu thập được cho những người cùng sống chung với mình, để mọi người đều được
thỏa mãn, vui vầy.
Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách triệt để thì trong
gia đình, cha mẹ vợ chồng, anh em, đều được hòa thuận yên vui, gia nghiệp mỗi
ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế giới đ hòa bình an
lạc.
Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng đắn pháp “Lục hòa”,
thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con đường giải thoát được gần hơn,
và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước vọng.
Vậy xin khuyên các Phật tử mỗi người sau khi học hiểu
rõ Lục hòa, phải thật hành cho được và khuyên mọi người thật hành
theo, để cùng hưởng hạnh phúc chung.
Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét