RỪNG THẲM (tiểu thuyết)
Tác giả: Julien Gracq,
Dịch giả: Hoàng Hà/Hiệu Constant
NXB Đà Nẵng
https://www.vinabook.com/rung-tham-tieu-thuyet-p20426.html
Giới thiệu tác phẩm (Hiệu Constant)
Hiếm có một nhà văn
nào mà đương thời những tác phẩm của mình lại đựoc tuyển chọn in trong bộ sưu tập
Pléiade tại Pháp. Julien Gracq là một trong những nhà văn hiếm hoi đó. Ông
không những là một nhà văn nổi tiếng mà còn là một nhà phê bình văn học rất
lớn như nhà văn Philippe Sollers đã từng phát biểu: Gracq chiếm một vị
trí đặc biệt đáng kể trong nền văn học Pháp ở thế kỷ XX. Ông là hiện thân của
trào lưu văn học lãng mạn Pháp, vừa thiên cảm mộng mơ vừa có tính bác học.
Trong ông hội tụ những phẩm chất có từ Goeth - một nhà phiêu lưu nhất cho tới
Châtaubritan rồi lại tiến tới sự mạo hiểm của trường phái siêu thực...
Trong tác phẩm
này, Julien Gracq đã trao gởi nhiều kinh nghiệm của chính bản thân
mình trong cuộc đời quân ngũ mà ông đã ấp ủ bấy lâu. Vào năm 1939, đây là năm đầu
tiên của thứ mà ta vẫn quen gọi là Cuộc chiến tranh kỳ cục. Giai đoạn
chờ đợi phập phồng , thời kỳ chờ đợi sự đổ bộ của quân Đức quốc xã vào Pháp ở
vùng Ardenner, nơi mà chuẩn ý Grange cùng với tiểu đội của mình có nhiệm vụ cầm
chân những chuyến xe bọc thép của Đức tràn xuống nếu như cuộc chiến bùng nổ.
Nơi đây, thực ra vừa là chốn tiền tiêu, lại giống như một thứ đảo hoang trên trận
tuyến Meuse luôn có những dấu hiệu đầy nghi ngại. Qua tác phẩm của mình, Gracq
tố cáo chiến tranh - một cuộc chiến hết sức vô nghĩa lý như những trò chơi trẻ
con với "Những cú huých khuỷu tay, những cú đạp chân...".
Từ cuộc chiến vô nghĩa lý, tác giả nâng cao giá trị nhân văn, tình nhân loại
yêu thương của con người trong thời chiến: những cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa những
người lính với những người dân địa phương, những mối tình chớm nở đã kịp để lại
cho họ những tình cảm gắn bó không dễ gì phai mờ.
Báo (Tuổi trẻ ONline)
TT - Những người
lính đang dần dấn vào một con đường xuyên rừng. Thiên nhiên cứ dần đầy lên trước
mắt họ. Với chuẩn úy Grange, thiên nhiên không chỉ ở phía trước mà còn ở bên
trong.
Cảm giác có thể chạy
đi mãi dưới tán rừng trong buổi sớm. Và giấc ngủ, “tay buông thõng xuống thành
giường trên dòng sông Meuse giống như bên thềm một bến đò” hệt như giấc mơ lãng
quên, êm dịu.
Nhưng đây là đang
chiến tranh. Đang vào năm 1939 - năm mở đầu của “cuộc chiến tranh kỳ cục” cùng
với tất cả sự đảo lộn, phập phồng, hoang mang... Tại khu vực rừng thẳm Ardenne
(nước Pháp), chuẩn úy Grange cùng tiểu đội của anh có nhiệm vụ cầm chân những
chuyến xe bọc thép của Đức tràn xuống. Chiến tranh không biết nổ ra lúc nào...
Trong bối cảnh đó,
Grange tình cờ làm quen với cô nàng Nona xinh đẹp. Hay nói chính xác hơn, chính
Nona đã “theo dõi” sát nút anh chàng mơ mộng Grange. “Em đã quyến rũ được anh”
- Nona nói như vậy với một tình yêu tràn đầy tự nhiên. Cũng có thể nói là buồn
cười vì trong bối cảnh chiến tranh luôn mang tính chất “hù dọa” như thế, họ đã
có những ngày sống bên nhau thật dễ chịu, vui tươi, nồng nàn... Dường như, ở
đây, tác giả đã làm một động tác là “xua” chiến tranh sang một bên, hay là biến
nó thành một “trường chiêm bao” với tất cả những gì không thể cưỡng lại của cuộc
sống tràn trề.
Julien Gracq - tác
giả của tiểu thuyết Rừng thẳm - được xem là một trong số hiếm hoi những
nhà văn có tác phẩm được đọc nhiều nhất ở Pháp và trên thế giới. Và cũng hiếm
có nhà văn nào mà khi còn sống tác phẩm lại được tuyển chọn trong bộ sưu tập
Pléiade (Pháp). Với bạn đọc VN, hẳn đã từng biết Julien Gracq qua tiểu thuyết Bờ
biển Syrtes - một cuốn sách rất tuyệt. Là người luôn phản đối việc thương
mại hóa văn học, Julien Gracq chủ trương một loại văn chương thuần chất đầy
thiêng liêng. Ông là người đã từng đương đầu với Sartre bằng cuốn tiểu luận Văn
chương dành cho dạ dày (năm 1949). Không màng tới những gì “ngoài văn học”,
thậm chí Julien Gracq còn từ chối giải thưởng Goncourt cho cuốn Bờ biển
Syrtes (năm 1951).
Trở lại Rừng
thẳm. Tôi đã đọc và... trở lại cuốn sách này sau những ngày bận bịu. Một cảm
giác hân hoan tràn ngập trở lại. Đọc xong cuốn sách rồi mà cứ muốn cầm giữ mãi
trên tay. Có những loại sách mình chỉ có thể đọc nó khi trong đầu hoàn toàn
không “mưu tính” điều gì. Cuốn Rừng thẳm này thuộc loại sách đó. Một
cuốn sách tràn đầy cảnh sắc và nhạc điệu thiên nhiên. Nó làm cho người đọc vừa
muốn lướt nhanh vừa muốn giữ chậm; vừa nôn nóng muốn biết xem cuối cùng Grange
có chết, lại vừa nín lặng từng bước chờ theo hơi thở cảm xúc của con người này
(?!). Cuốn tiểu thuyết đặt mình vào một trạng thái rất “vớ vẩn” như đang yêu,
chứ không phải là đang... gặm chữ (!).
TRẦN NHÃ THỤY
Đoạn trích:
Kể từ lúc đoàn tàu vượt ra khỏi vùng ngoại ô và những
cụm khói mù mịt của Charle-ville, đối với chuẩn uý Grange, vẻ xấu xí của nhân
loại hình như đã tiêu tan đi : anh thoáng nhận ra tất cả mọi ngôi nhà đã
vượt khỏi tầm mắt. Con tàu vẫn chạy dọc theo dòng sông hiền hoà chảy, rồi nó
bỗng chuyển hướng ; lúc đầu nó chạy sâu vào những vách đồi lúp xúp mọc đầy
những cây dương xỉ và cây kim tước. Sau đó, cứ qua mỗi một khuỷu sông, thung
lũng lại như chìm hẳn xuống, trong khi đó thì tiếng ầm ào của con tàu đi trong
hưu quạnh vẫn bùng lên, nhảy xổ vào các vách đá, sườn đồi ; và cũng trong
cùng lúc đó, một cơn gió hoang, đã có vẻ dịu đi trong buổi chiều mùa thu chạng
vạng đang chấp chới đến gần, thổi ào vào mặt anh, khi anh thò đầu ra ngoài cửa
sổ. Con tàu cứ vượt qua vượt lại dòng sông một cách thất thường đồng bóng, nó
vượt qua Meuse trên những cây cầu có duy nhất một nhịp vì kèo sắt. Và trong
giây lát, nó lại chìm vào một đường hầm ngắn đắp uốn khúc để vượt qua đèo. Khi
thung lũng xuất hiện trở lại, chói lọi lung linh dưới ánh sáng vàng rực rỡ, mỗi
lần khe thung lũng thu hẹp lại, ẩn sâu giữa hai cánh rừng là dòng sông Meuse
lại có vẻ lầm lì và ủ rũ hẳn đi, như thể nó đang phải lăn dài trên chiếc giường
đầy lá mục. Trên tàu, khách vắng tanh làm ta có thể suy luận rằng con tàu đảm
bảo sự giao lưu trong sự hưu quạnh này là chỉ vì một thú vui duy nhất :
được chạy trong đêm mát, len lỏi giữa những sườn đồi, thung lũng của vùng rừng
núi vàng xộm ngày càng như cao hơn trên màu xanh thẳm trong suốt của buổi chiều
tháng mười ; dọc theo triền sông, cây cối chỉ làm lộ ra như một dải ruy
băng mỏng manh xanh thẫm màu cỏ, cũng rõ ràng mạch lạc như một thảm cỏ kiểu
Anh. ‘Đó là chuyến tàu đi Domaine d’Arnheim’, viên chuẩn uý - bạn đọc trung
thành của Edgar Poé* thầm nghĩ, và châm thuốc hút, anh ngả hẳn đầu về phía sau,
gối lên thành ghế cao để có thể dõi mắt nhìn cao và xa hơn tầm nhìn bình thường của anh về phía mỏm đá dốc dựng
đứng phủ đầy những bụi cây rậm rì ; những dốc đá dựng đứng này đang hùng
dũng vươn lên đấu chọi với mặt trời chiều. Trong tầm nhìn của anh, thấp thoáng
những hẻm sông nhánh, những vùng đất xa xôi rậm lá mất hút đằng sau làn khói
màu xanh lơ thoát ra từ điếu xì-gà ; ta cảm thấy như đất đai nơi đây như
đang gợn sóng lăn tăn dưới khu rừng rậm, khúc khuỷu này, cũng hết sức ngạc
nhiên như một cái đầu của thằng mọi đen. Thế nhưng, sự kém phần hoa mỹ cũng
không hoàn toàn phó mặc cho sự quên lãng : thỉnh thoảng con tàu lại dừng
lại ở những ga xép cóc cáy, loang lổ màu quặng sắt ; những nhà ga nằm
chênh vênh trên những ụ đất đắp nổi giữa dòng sông hay treo leo trên những vách
đá : ngược hẳn với màu xanh chiến tranh, những khung cửa kính đã bị nhạt
màu, những người lính trong quân phục ka-ki ngồi ngủ gà gật trên những thùng xe
chở hàng của bưu điện, hai chân buông thõng sang hai bên – và sau đó, thung
lũng xanh ngắt bỗng chốc lát trở nên như người bị bệnh nấm tóc ; họ vượt
qua ngôi nhà vàng bi thương sầu thảm, được dựng gọn gàng trong màu đất son,
hình như chúng đang muốn trút bỏ lên màu xanh thẳm của lá rừng bao quanh lớp bụi
đường đá vôi, và khi con mắt bừng tỉnh quay về hướng Meuse, lúc này anh đã phân
biệt được từng vị trí riêng biệt, những pháo đài con còn tươi nguyên màu gạch
mới và màu bê tông, màu của một công việc nặng nhọc khổ ải, và chạy dọc theo bờ
sông trên những mạng lưới hàng rào dây thép gai mà cơn lũ nào đó của dòng sông
đã treo lơ lửng, vương lên đó những cọng cỏ úa vàng : thậm chí ngay cả
trước cú đạn đại bác đầu tiên, bệnh gỉ sắt, những hàng rào dây thép gai, mùi
đất bị cày xới, những thửa ruộng hoang hoá…đã
làm xấu đi vùng đất hãy còn trinh nguyên của xứ Gaule trù phú.
Khi anh bước xuống sân ga Moriarmé, toàn bộ thành phố
nhỏ đã khuất hẳn đằng sau bóng một vách đá dựng đứng ; trời bỗng trở lạnh
đột ngột, một tiếng còi nhà máy rít xé ngang tai, và cú thứ hai nữa đập mạnh
vào bả vai anh như một miếng rẻ rách ướt sượt, nhưng đó chỉ là tiếng còi hú của
nhà máy dành cho một đội quân buồn tẻ vùng Bắc Phi. Anh nhớ lại trong những đêm
dài của thời kỳ nghỉ hè xa xưa, thỉnh thoảng anh vẫn vểnh tai nghe tiếng còi báo
động của thành phố : một tiếng – trong làng có người chết ; hai tiếng
– trong làng có đám cháy ; ba tiếng – có lửa cháy ở một trang trại cách xa
thành phố. Tiếng còi thứ ba làm tan đi nỗi lo lắng bồn chồn, một tiếng thở phào
nhẹ nhõm. “Ở đây mọi thứ sẽ bị đảo ngược lại, anh nghĩ : một tiếng cho
khoảng khắc an bình ; ba tiếng cho bom nổ, vấn đề là phải biết phân biệt
nó”. Mọi thứ trong cuộc chiến này diễn ra có phần kỳ quặc. Nhờ một viên chức
hoả xa ở trạm điều khiển trung đoàn chỉ dẫn, lúc này anh đang tản bộ trong khu
phố nghèo xám xịt dẫn tới Meuse ; hoàng hôn đến nhanh của bầu trời tháng
10 khiến khách vãng lai dân sự nhanh chóng mất hút hết trên các đường phố,
nhưng khắp nơi, trước những toà nhà quét vôi vàng, những tiếng ồn ào của lính
quốc phòng phả ra, tiếng mũ sắt, cà-mèn va vào nhau loảng xoảng, tiếng giầy
đinh nện xuống nền nhà lát gạch vuông : nếu ta nhắm mắt lại và cố lắng
nghe trong vài giây, Grange nghĩ bụng, thì quân trang khí giới hiện đại cũng
vẫn còn kêu leng keng y trang tất cả các loại áo giáp cổ xưa của thời diễn ra
cuộc chiến trăm năm.
Nằm bên bìa rừng, sở chỉ huy tiểu đoàn là một ngôi nhà
xây bằng đá cối, kiểu kiến trúc của vùng ngoại ô Paris và trông nó quả là buồn
tẻ, được ngăn cách với kè sông bằng một hàng rào sắt và một dãy bồn hoa xơ xác,
đã bị nát nhừ dưới những gót giầy nhà binh, bên cạnh những bồn hoa là những
chiếc xe đạp máy dựng dựa vào các thân cây hoa đinh trơ trụi : giống như
lỗ tổ ong quá chật, hai tháng đóng quân đã phá hoại hết cảnh vật : chân
cột và toàn bộ những bức tường của hành lang cao ngang đầu người đã trơ ra
những khung nõi sắt. Grange phải chờ đợi khá lâu trong căn phòng đầy bụi, một
chiếc máy chữ đang lạch xạch làm việc sau cánh cửa sổ nửa đóng nửa mở :
thỉnh thoảng người hạ sĩ quan, đầu không ngẩng lên, đè dí mẩu thuốc lá xuống
góc bàn vẽ : trước đây, ngôi nhà này chắc đã từng là nơi ở của một kỹ sư
luyện kim. Đằng sau cánh cửa sổ đang chấp chới, hàng cây cao có vẻ như tiến sát
đến tận mái nhà, chạm cửa sổ, phía trên Meuse dọc theo triền sông chất đầy xỉ
than, lúc này trời đã rất tối, tiếng trẻ kêu khóc thỉnh thoảng lại ré lên trong
khu phố, tan loảng đi trong không khí ngột ngạt của chiến tranh, những tiếng
khóc đó cũng chẳng có chút ý nghĩa gì mà cũng chỉ như những tiếng kêu của loài
thỏ rừng. Khi anh dập gót giầy đứng nghiêm trong phòng làm việc vẫn còn rất
sáng sủa của thiếu tá, cái nhìn phát ra từ đôi mắt xám màu nước biển và cái
miệng mím chặt như bị biến mất hẳn dưới hàng ria cứng rậm rạp đã làm Grange hết
sức kinh ngạc : viên thiếu tá quả là rất giống Moltke*. Có một sự đột khởi
mạnh mẽ thô bạo và chát chúa trong cái nhìn ấy, nhưng liền sau đó cặp mắt ấy
lại như mờ đi do lớp màng vẩy cá bao phủ, và rồi lại khép lại dưới hàng mí mắt
nặng nề, cách biểu lộ nói nên sự mệt mỏi, nhưng là thứ mệt mỏi ranh mãnh chỉ
bày tỏ ra ngoài một cách dè xẻn : đằng sau sự bất động kiểu chim cắt trùm
đầu này, ta nhận thấy bộ vuốt đang sẵn sàng chờ lệnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét