Những giải Goncourt bị lãng quên
Jury du prix Goncourt le 12 décembre 1933 au restaurant Drouant à Paris
***
Hơn một trăm năm kể từ khi giải Goncourt được thành lập
tại Pháp. Một giải thưởng cao quý chỉ dành cho một tác phẩm văn học đặc sắc
nhất trong năm, và tác giả của nó đương nhiên dành được một vị trí trang trọng
trong làng văn học, không chỉ ở Pháp mà còn trên toàn thế giới. Liệu thời gian
tỏa sáng của vòng nguyệt quế vinh quang ấy có kéo dài lâu, và có dành cho tất
cả mọi nhà văn Pháp hay không, thì câu trả lời có lẽ là không. Trong bảng danh
sách dài các tác giả nhận giải Goncourt thì có khá nhiều đã bị lãng quên, bị
tách khỏi bộ nhớ của cộng đồng. Chúng ta cùng tạp chí Expresse điểm qua một số nhân vật vang bóng một thời, chân dung, sự
nghiệp cũng như đứa con tinh thần đã đưa họ lên đỉnh cao trong nền văn học
Pháp.
Với tác
phẩm Những người văn minh, Claude
Farrère đã nhận giải Goncourt năm 1905. Tại sao lại là C. Farrère? Chính là bởi
tính cách khác người của ông và hành trình đặc biệt, chúng biến ông thành một điểm
khởi đầu cho sự khám phá những Goncourt bị lãng quên này.
Claude
Farrère, tên thật là Frédéric-Charles Bargone sinh ngày 27 tháng tư năm 1876 tại
Lyon, mất ngày 21 tháng sáu năm 1957 tại Paris. Năm 1884, ông nhập trường đại
học hải quân, khi tốt nghiệp, ông được điều về Hải Đoàn Levant, dưới lệnh của
Pierre Loti, - một sỹ quan hải quân đồng thời cũng là một nhà văn nổi tiếng, và
sau này họ đã trở thành bạn thân của nhau. Thân cận với Pierre Loti, Claude
Farrère cùng ông thường xuyên thực hiện những chuyến đi xa, đến các hải phận khác
như Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỹ, Đông Dương...: Những nơi xa lạ thường xuyên thu hút
và tạo nguồn cảm hứng cho ông.
Những người văn minh là tác phẩm quan trọng trong
sự nghiệp văn chương của Claude Farrère, minh họa tình yêu đối với du lịch, sự
quyến rũ của các vùng đất khác. Thiên hùng ca ngoại lai và bản buộc tội chống-thực
dân chủ nghĩa, cốt truyện của ông chủ yếu định vị ở Sài Gòn, quay xung quanh ba
nhân vật: Mévil – bác sỹ, Torral – kỹ sư, và Fierce – sỹ quan hải quân. Ba nhân
vật này là hiện thân của một nền thực dân mục rữa, bị rày vò bởi các thói hư
tật xấu và những thèm muốn miền đất Á châu. Thuốc phiện, ruồng rẫy cơ thể: các ứng xử đạo đức tan thành mây khói khi
tiếp xúc với thực tế thuộc địa.
Farrère
muốn tố cáo những hệ tư tưởng chính thức và quay về với những tiền-giả định còn
hiệu lực thời đó. Ai là hoang dã? Ai là văn minh? Các vai trò phải chăng đã
được định nghĩa rõ ràng nhường ấy sao? Ông, người vốn thông hiểu Đông Dương,
đặt câu hỏi và trả lời: “... những con
người này (người châu Á) tiến sớm hơn trong thời đại chúng ta, là những người
văn minh, còn chúng ta chính là những kẻ hoang dã”. Được bầu với số phiếu
áp đảo, Những người văn minh đoạt
giải Goncourt thứ ba trong lịch sử của nó, và trên thực tế cũng đem lại thành
công nhất định.
Nếu như
tác phẩm của Claude Farrère hình như thu được sự chú ý do sự khác biệt và
thuyết tương đối về những giá trị phương Tây, thì chặng đường chính trị của ông
lại u tối hơn. Vốn là người Quốc gia chủ nghĩa và Cộng hòa, những suy nghĩ mang
tính hệ tư tưởng của ông đi thẳng đến cánh cực hữu. Bị ghi dấu ấn bởi cuộc Đại
chiến thứ nhất (1914 – 1918) và trải nghiệm trấn động tinh thần trong các đường
hầm hào, ông ra nhập thoạt đầu vào Hội
các nhà văn chiến binh, do José Germain thành lập năm 1919, hội này tập hợp
các tác giả Pháp đã từng chiến đấu trong cuộc Đại chiến. Sau đó, mọi thứ biến
thoái dần. Ông cộng tác với tờ Flambeau,
một tạp chí ra hàng tháng của liên minh Croix
de feu, và trong những năm 1950, người ta lại thấy ông xuất hiện trong Hội bảo vệ ký ức của Nguyên soái Pétain.
Những
quan hệ với hệ tư tưởng không ngăn ông được bầu vào Hàn lâm viện Pháp năm 1935,
ông chiến thắng vang dội trước đối thủ nặng ký Paul Claudel với số phiếu 15 –
10. Chuyện này đã khiến François Mauriac tức giận, người này xem đây là một vụ
xì căng đan chưa từng có trong lịch sử Hàn lâm viện, bởi theo ông, sự kiện này
dọn chỗ cho Charles Maurras, được bầu vào năm 1938, và cuộc Cách mạng quốc gia
của Pétain.
Hơn năm
mươi năm sau sau khi qua đời, chúng ta còn nhớ được gì về Claude Farrère? Một
giải văn chương mang tên ông, được Hội
các nhà văn chiến binh thành lập từ năm 1959 nhưng đã kết thúc vào năm
2009. Sự can thiệp của ông vào án mạng nhắm vào Paul Doumer (Tổng tthống Pháp
thứ 14) năm 1932, khiến ông nhận hai phát đạn vào cánh tay, thế rồi, chẳng còn
gì nữa. Rất nhiều tác phẩm của ông hình như cũng bị lãng quên. Một con người và
một sự nghiệp văn chương đã bị lịch sử khâm liệm. Tại sao vậy? Tại sao Farrère
lại đáng bị quên lãng như thế? Câu trả lời sẽ nằm trong mỗi bạn đọc khi tìm
hiểu kỹ sự nghiệp văn chương cũng như chính trị của ông.
Paul Colin,
đăng quang năm 1950 (Jeux sauvages)
Sau
Claude Farrère, Paul Colin cũng xứng đáng bị chúng ta nhắc đến trong bản danh
sách những Goncourt bị lãng quên. Năm 1950, ông đã giật giải văn học thượng
đẳng này khỏi tay một nữ văn sỹ quan trọng: Marguerite Duras.
Paul
Colin sinh năm 1920, đoạt giải Goncourt khi ông 30 tuổi. Bạn đọc chỉ được biết
đến một tác phẩm duy nhất khác nữa của ông là Miền đất thiên đường, xuất bản năm 1959. Dấu hiệu còn sống của ông
dành cho bạn đọc là vào năm 1970 trong một đoạn băng vidéo, hiện nằm trong viện
tư liệu phim ảnh Quốc gia. Trở thành một ông chủ trang trại ung dung trong một
điền trang mênh mông ở miền nam nước Pháp, từ trên chiếc xe kéo thắc-tơ Fort
cao ngất ngưởng, Paul Colin nhìn lại quá khứ văn chương vinh quang của mình với
một sự mai mỉa giễu cợt, ông trấn an mọi người rằng mình chưa bao giờ muốn theo
đuổi sự nghiệp viết lách này. Sau đó, ông biến mất khỏi tần sóng truyền thông.
Tại nhà xuất bản Gallimard, nơi đỡ đầu cho các tác phẩm của ông, người ta không
hề tìm thấy địa chỉ nơi ở hiện thời của ông ở đâu. Ông là Goncourt trẻ nhất bị
lãng quên trong bản danh sách.
Giải Goncourt: Do ông chẳng muốn kể chuyện
mình và quan hệ với giới truyền thông, chúng ta cùng đi sâu tìm hiểu tác phẩm mà
nó tặng vầng hào quang cho Paul Colin. Cuốn tiểu thuyết mang tên Những trò chơi hoang dã. Nhân vật chính,
François Gane, một mình trong phòng và viết. Nhờ có màn đêm, những kỷ niệm bắt
đầu trỗi dậy. Anh lặng ngắm, nhìn lại đời mình, những năm tháng sống ở nông
thôn, những trò chơi thời con trẻ, thuở học đường, bạn gái, những cuộc chinh
phục và những lần thất bại. Lúc thì cô độc, khi lại bị những người khác cuốn
đi, anh chầy chật không sao tìm được chỗ cho mình trên thế gian này. Một vũ trụ
in dấu bạo lực, nơi mà con người vò xé nhau còn những mối quan hệ bè bạn thì bị
tan rữa đi.
Từ trẻ
thơ đến tuổi trưởng thành, chỉ có những thể thức là thay đổi, còn sự hoang dã
thì vẫn trụ lại. Con người không thể ngăn mình tạo đau khổ cho nhau, mong muốn
là chủ sở hữu, muốn được chế ngự kẻ khác. François ra sức cố gắng bằng mọi cách
để thích hợp với thế giới ấy.
Paul
Colin trưng ra cho bạn đọc chúng ta một bức tranh tường rộng lớn với nhiều cung
bậc của một đời người. Đôi khi hình như hơi nặng nề do một văn phong rối rắm,
do sự lệch đề lộn xộn, nhưng cuốn sách tuy nhiên cũng khiến bạn đọc, như một
thứ đã từng trải nghiệm, nghiền ngẫm lại những hoài niệm cá nhân của riêng
mình. Ghi tên mình vào thế giới này, thì phải chiến đấu.
Một câu
chuyện dài về gia đình và những giai thoại thầm kín riêng tư, cuốn tiểu thuyết
của ông đã dành được ưu ái nổi trội hơn một tác phẩm tầm cỡ Đập ngăn thái bình (Marguerite Duras) - viết
về một tuổi thơ khác, nhưng cuốn này lại được hậu thế lưu giữ và nhớ mãi.
Một đoạn trích: “...” “Trong các trò chơi này, Claude và Denise còn chứng tỏ hung bạo hơn cả
chúng tôi. Bịch kích động đến cực điểm, các tiểu thần phá hoại nhìn sự ác độc
của chính mình bằng cặp mắt khép hờ của chúng, và nhảy theo một kiểu duyệt binh
thời nguyên thủy, trong lúc lẩm bẩm những câu vịnh thánh chiến binh mà có lẽ
được các Hung thần sáng tác ra. Trong chuyện này, chỉ còn vấn đề các hành động
tàn nhẫn đối với cha mẹ, những thế hệ trong tương lai và toàn bộ nạn nhân mà
lòng ruột được họ lấy sử dụng làm những chuỗi vòng đeo tay, đeo cổ. Trong sự
gợi lại những trò tra tấn tinh tế, các tiểu thần đã đạt tới đỉnh điểm của sự
hoang dã.
Điều này thường xuyên được dàn trải rất muộn trong đêm,
và chúng ta đã trở về sau giờ ăn tối. Chả quan trọng gì, không ai còn để tâm
đến chúng ta nữa. Những con quỷ khác đã xâm chiếm lấy cha mẹ rồi, những người
mà chúng ta đã kịp quên hẳn sự hiện diện của họ.” “...”
Ernest Perochon, đăng quang năm 1920 (Nêne)
Với
nhiều bạn đọc cái tên này có lẽ chẳng nhắc cho bạn nhớ lại điều gì, ấy thế mà,
cách đây chín mươi hai năm, Ernest Perochon đã đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp
văn học khi giật giải Goncourt với tác phẩm Nêne.
Ernest
Perochon sinh năm 1985 ở thành phố nhỏ Courlay, trong tỉnh Deux-Sèvres, Pháp,
trong một gia đình theo đạo Tin Lành. Ông thuở nhỏ đến trường ở làng Tour
Nivelle, và từ lâu nơi đây đã trở thành nhà bảo tàng mang tên ông. Ông vào đời
lập nghiệp là một thầy giáo dạy cấp I, cùng lúc ông dành thời gian sáng tác thơ
ca, cảm hứng của ông tới từ cuộc sống đồng quê thôn dã và đám trẻ học trò của
ông. Gắn bó với vùng quê mình, ông tìm cách truyền tình yêu của ông cho những
con người bần hàn “những kẻ ăn bữa nay lo
bữa mai”. Thế rồi, niềm đam mê văn chương đã trở thành nghề mới của ông!
Tiểu thuyết đầu tay của ông mang tên Những
vết nhà lõm, (Les creux de Maison) được đăng dài kỳ trên nhật báo Humalité,
do Jean Jaurès – cha đẻ của đảng Xã hội Pháp thành lập vào năm 1912. Sau khi
đoạt giải Goncourt với tác phẩm tiểu thuyết thứ hai, ông dời khỏi ngành sư phạm
và đến lập nghiệp ở Niort và sống tại đó đến tận khi qua đời vào năm 1942. Sự
nghiệp văn chương của ông bao gồm 19 cuốn tiểu thuyết, hai tập thơ và bảy cuốn
sách dành cho trẻ em và một truyện ký.
Kịch
thông tục được lên màn hình
Nêne kể lại câu chuyện về Madeleine Clarandeau, một cô hầu
làm việc cho một chủ trang trại chừng ba mươi tuổi tên là Michel Corbier, góa
vợ và cha của hai con nhỏ: Eulalie và em trai Georges. Dần dần, cô hầu ấy gắn
bó thân thiết với gia đình, với ông chủ và nhất là với những đứa bé “luôn sợ
sệt và yếm thế” mà cô coi chúng như chính con đẻ của mình. Nhưng niềm hạnh phúc
bình an của cô mau chóng bị quấy dối bởi thói bủn xỉn của một kẻ hầu khác,
Boiseriot, và một cô thợ may tên là Violette. Các mối quan hệ luôn bị ức chế ấy
dần dần trở thành kịch tính trong một bầu không khí vốn đã nặng nề trong một
ngôi làng nhỏ ở tỉnh Vendée, nơi sống hỗn độn và luôn đối nghịch nhau giữa
người Tin Lành, Công Giáo và những người “bất đồng chính kiến”, hậu duệ của
Chouans – những người không bao giờ chấp nhận thỏa ước của Napoléon giữa Nhà
thờ và Nhà nước. Madeleine et Corbier xuất thân từ các gia đình “bất đồng chính
kiến”. Trong khi đó thì Violette, kẻ phản bội, lại thuộc Công Giáo.
Câu
chuyện về Nêne đã được chuyển thể thành phim câm cùng tên trên màn hình vào năm
1923 do đạo diễn Jacques de Baroncelli, dài một tiếng mười lăm phút. Cuốn sách
mà nếu tìm cũng ta sẽ thấy do nhà xuất bản Plon tái bản lại năm 1923, là một
tác phẩm được minh họa theo bộ phim đó. Chúng ta sẽ khám phá thấy một sự trao
đổi giữa đạo diễn phim và nhà văn: một người giải thích những lập luận của mình
về những thay đổi mà ông mong muốn đem lại sự hồi hộp, con người kia, nhạy cảm
trước quan điểm ấy về tác phẩm của mình, đã đồng thuận với người kia.
Một bài
thơ ca ngợi sự trìu mến
Ngoài
những thông tin quý báu ấy, các bức ảnh được chụp từ bộ phim minh họa cuốn tiểu
thuyết, theo thể đen trắng, thì lại rất gây ấn tượng, và được bình luận như một
tác phẩm ảnh, nhưng cuốn tiểu thuyết lại tàng trữ những vật báu của chính nó:
ta bị quyến rũ bởi sự duyên dáng hơi cổ của trường từ vựng được sử dụng. Những
miêu tả đầy tính thơ ca của miền nông thôn còn hoang sơ được Xuất bản gia so
sánh một cách rất chính xác, với những bức tranh. Câu chuyện về cô hầu với tính
cách vững vàng nhưng cùng lúc lại mong manh quá đỗi, cô yêu mến thực sự những
đứa trẻ mà cô chăm nom đến tận mức có thể hy sinh hết thảy vì chúng. Tình trìu
mến vô hạn tỏa ra từ một thế giới mà tại đó chỉ có sự bất công và tàn độc chế
ngự. Sự pha trộn những cảm xúc đã biến Nêne
thành một tác phẩm vô cùng xúc động... mặc dù thiếu phần kết có hậu. Trong câu
trả lời dành cho Jacques de Baroncelli, Ernest Perochon đã viết: “Cái kết cục ấy, mà người ta đã thường xuyên
khiển trách tôi đến nỗi mà mỗi khi nghĩ đến đoạn ấy thì tôi chắc phải thấy xấu
hổ. Ấy thế mà không đâu! Tôi vẫn kiên trì trong sai lầm ấy, và tôi lao thẳng
vào đó. Nếu như phải viết lại cuốn tiểu thuyết, thì có lẽ tôi sẽ thay đổi một
vài đoạn trong tác phẩm, nhưng sẽ không động chạm đến những trang cuối đâu”.
Bạn đọc chúng ta phải cảm ơn ông vì điều ấy.
René Maran, được trao giải Goncourt năm 1921 (Batouala)
Đoạt
giải Goncourt năm 1921 cũng không ngăn được René Maran bị chìm vào quên lãng.
Tác phẩm Batouala của ông chỉ trích
dữ dội chế độ thực dân, ấy thế mà lại được coi như là một trong những tác phẩm
đầu tiên về “thân thế và phong cách người da đen”
Giải
thích thế nào đây về tác phẩm Batouala
của René Baran, nhân chứng quý báu về sự chớm nở của một nền văn hóa của người
Pháp da đen trong buổi đầu của thế kỷ XX và đoạt giải Goncourt thì chẳng gợi
lại điều gì ở bất cứ ai ư? Chúng ta hãy thử gạt đi lớp bụi mờ bám đầy trên “tác
phẩm tiểu thuyết Đen thực sự” này xem sao, đã được trao vòng nguyệt quế của
giải thưởng danh giá nhất của nền văn học Pháp cách đây 91 năm.
Tiểu
thuyết đầu tiên “về da đen” viết bởi một “người da đen”
Sinh ở
Fort-de-France ngày 5 tháng mười một năm 1887, René Maran rời khỏi đất nước
Martinique của ông khi mới sáu tuổi để đến Mẫu quốc học tập. Năm 1909, ông xuất
bản tập thơ đầu tiên có tên Ngôi nhà của
niềm hạnh phúc. Năm tháng ông sống ở Trung Phi, năm 1912, là một sự khám
phá đối với ông: khi ấy làm việc như một quan chức hành chính Hải ngoại ở
Oubangui-Chari (hiện này là Cộng hòa Trung Phi), ông khám phá ra những điều
kiện sống hổ lốn của các dân tộc thuộc địa. Chính trong thời kỳ này mà ông bắt
đầu viết Batouala, và được xuất bản
năm 1921 tại Nhà xuất bản Albin Michel nhờ sự ủng hộ nhiệt tình của các bạn hữu.
Batouala đoạt giải Goncourt. Nhưng xì
căng đan chẳng mấy chốc bùng nổ dữ dội. Trong phần mở đầu sách của mình, tác
giả tố cáo những mối quan hệ xung đột giữa da trắng và da đen và kết tội nền
văn minh châu Âu đã “xây dựng hoàng triều
của họ trên những xác chết”. Chính quyền thuộc địa buộc ông phải từ chức và
cấm phát hành cuốn sách của ông trên lãnh thổ châu Phi.
Batouala,
một người hùng theo chủ nghĩa hiện sinh bị khủng hoảng.
Đại thủ
lĩnh Batouala sống bên bờ dòng sông Nioubangui, ông là một trong những đạo sỹ
thờ động vật hùng mạnh nhất của xứ sở Bandas, nơi mà thế giới truyền thống của
họ bắt đầu sụp đổ. Khi thức dậy bên cạnh phu nhân, nàng Yassigui’dja kiều diễm,
thì cả hàng ngàn mối lo xâm chiếm lấy ông: ông phải tổ chức lễ hội nhập môn cho
các “Ga’nzas”, rồi lại chuẩn bị cho đợt săn bắn dài ngày. Ông hơi gờm trước
cuộc tranh đua ngầm của chàng trai trẻ dũng mãnh Bissibi’ngui, “chú gà trống
được giới đàn bà thích nhất”, hắn đã dám tỏ ý ham muốn Yassigui’nda của ông.
Ông cũng lo lắng khi nhìn thấy các binh sỹ da đen nhập ngũ vào quân đội Pháp để
tham gia vào một cuộc chiến vô lý giữa “trắng frandjé” và “trắng zaléman”. Họ
sẽ sa vào bãi lầy nào đây? Liệu phải mong muốn chiến thắng cho phe “zaléman”
chống lại những thực dân “frandjé” không?
Người da trắng, được miêu tả như những bộ mặt
kỳ cục nực cười và hách dịch, luôn khinh thường dân da đen một cách tuyệt đối
và cực kỳ tàn bạo. Batouala không ngừng tố cáo sự “thâm độc của những ‘boungjous’, sự “tàn ác và tham lam của họ”. Dẫu có những chỉ trích gián tiếp gửi
tới phe thực dân, nhưng René Maran không bị chìm vào trong đạo Thiện – Ác mà
thẳng thắn miêu tả những thói hư tật xấu của những bộ tộc Phi châu – ghen tuông,
lười biếng, hèn nhát. Cao thượng và hèn hạ đi đôi với nhau, bởi “con người, cho dù mang màu da nào, thì vẫn
luôn là con người thôi”.
Một
nhân chứng dân tộc học
Sau tác
phẩm (đăng báo) Chuyện tình của Louis
Aniaba (1740), kể lại cuộc đời của ông hoàng nước Guinée được triều đình
Louis XIV nhận nuôi, thì rất hiếm có nhà văn Pháp nào lấy người da đen là nhân
vật chính cho tác phẩm của mình. Batouala giúp chúng ta khám phá những truyền
thống, huyền thoại và lòng tin của những bộ tộc Bandas, khi sử dụng rất nhiều
thành ngữ của dân Phi châu. René Maran miêu tả với một sự chính xác của một nhà
dân tộc học sự tổ chức của các ngôi làng và cuộc sống hàng ngày của dân chúng
nơi đây, những chuyên gia về săn bắn lưới đối đầu trực diện với báo ở Mourou,
và voi ở M’bala, và luôn bị sự đói kém đe dọa. Những câu chuyện cổ tích và
truyền thuyết được sáng tác trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, những bài ca thê
lương của người đàn bà đang đeo tang, sự hoan hỉ và cuồng nhiệt của cuộc săn
bắn được diễn tả bằng một trường từ vựng phong phú dồi dào. Nghệ thuật kể
chuyện của René Maran tái tạo lại toàn thể một thế giới, truyền nó đi xa đến
nỗi mà chúng ta như cảm nhận được thế giới đó rất gần đâu đó quanh đây.
Léon Frapié, đăng quang năm 1904 (La Maternelle)
Một năm
sau sự ra đời của mình, giải Goncourt nổi tiếng đã được trao cho tiểu thuyết Trường mẫu giáo của Léon Frapié.
Được
trao vòng nguyệt quế năm 1904, nhưng Léon Frapié cũng không sao ghi được tên
mình vào sự trường tồn trong vườn văn học Pháp. Các tác phẩm của ông, thường
xuyên mang tính giáo hóa, đôi lúc vụng về, thường ít thu hút được sự chú ý.
Nhưng Trường mẫu giáo lại vượt trội
hơn hẳn, không những so với các tác phẩm khác của chính ông mà còn nhiều tác
phẩm của các đồng nghiệp văn chương khác cùng thời.
Léon
Frapié, một tiểu thuyết gia xã hội
Sinh
tại Paris năm 1863, Léon Frapié thành hôn với Léonie Mouillefert, một cô giáo
trường làng năm 1888. Chính những giai thoại và truyện cổ tích mà vợ kể cho ông
nghe hàng ngày đã cổ vũ cho ông theo nghiệp viết văn, bắt đầu từ năm 1897,
nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn được miêu tả khung cảnh trường học Cộng hòa: Cô giáo ở tỉnh xa, Tiểu nữ sinh, Chiếc hộp
dành cho các thiếu nữ, Những câu chuyện cổ tích trong trường mẫu giáo...
Tiểu thuyết thứ ba của ông, Trường mẫu
giáo, đã đoạt giải thưởng Goncourt cao quý.
Với chủ
tịch ban giám khảo Joris-Karl Huysmans thì đây là một “cuốn sách bậc thầy”. Ông
tuyên bố:“Nó bốc mùi bần cùng của Paris
và sự cáu ghét của lũ trẻ nhỏ, đúng là dễ bị kích động thật, bị bực mình ngay
tức thì!” Phản ứng hăng hái này cũng không đáng ngạc nhiên. Ta tìm thấy nơi
Frapié một thẩm mỹ theo xu hướng tự nhiên, điều khiến ta nhớ đến các tác phẩm
của Huysmans hoặc của Emile Zola. Ông miêu tả với đầu óc thực tế những thói hư
tật xấu của quần chúng thuộc tầng lớp thấp hèn: nghiện rượu, bạo hành... Mối
quan tâm của ông đối với thuyết tiền định xã hội và quan điểm thuyết định mệnh
của ông về thân phận người lao động chắc chắn quyến rũ được cha đẻ của tác phẩm
Rougon Macquart.
Một năm
sống trong một ngôi trường mẫu giáo trong khu nghèo.
Vừa
nhận bằng tốt nghiệp, thiếu nữ quý tộc Rose đang chuẩn bị thành hôn với một
người đàn ông có “hình dáng hào hiệp” mà cô không ngừng ca ngợi những tài năng
của anh. Nhưng sau cái chết của cha, cô bị cắt món hồi môn và chồng sắp cưới
của cô, không từ mà biệt, lẳng lặng bỏ rơi cô. Mồ côi và không gia sản, tiểu
thư buộc phải xắn tay làm việc như một nhân viên quèn trong một trường mẫu giáo
ở Ménilmontant. Khi ấy, cô phải đối đầu với “khái niệm buốt lạnh của sự nghèo
khổ”: gần hai trăm học trò bẩn thỉu, bị đánh đập, gầy guộc hệt như những cái
que và vận những chiếc áo choàng xấu xí. “Các
em nhỏ đáng thương của tôi, trông các em ngán quá, thiểu não quá! Và các em còn
bốc mùi chua loét nữa, bẩn thỉu, quần áo luộm thuộm”, cô than vãn khi nhìn
thấy những khuôn mặt xanh xao và gầy trơ xương ấy. Trong suốt một năm học, Rose
đụng phải những nội quy, vừa khắc nghiệt vừa tàn ác, cai trị các trường mẫu
giáo ở buổi đầu của thế kỷ XX. Cái nhìn của cô về xã hội sẽ rất có thể bị xáo
trộn vì điều ấy...
“Nó bốc
mùi bần cùng của Paris và sự bẩn thỉu của các cháu bé”
Léon
Frapié ghi lại bằng một sự tỉ mỉ đến cảm động vẻ bề ngoài, mùi vị, ngôn ngữ và
cách ứng xử của đám trẻ xuất thân từ tầng lớp bần hàn: ông họa lên “thân hình gầy guộc xấu xí của chúng” “cặp mắt nhỏ sáng loáng”, “áo choàng đen và
sờn rách điểm hình cây thánh giá”, “khuôn mặt chúng già nua, dài ngoẵng, xanh
mét”, mùi của chúng thì “mang mùi
sắt, mùi dầu, mùi than, mùi mồ hôi, mùi rượu”. Ông so sánh những cô cậu bé
khốn khổ ấy với với một “đàn xúc vật”,
với những “con gia cầm” hoặc những “con gà mới nở”. Dưới con mắt ông cuộc
sống của mỗi cá nhân thì ít quan trọng hơn là bi kịch tập thể.
Người
kể chuyện, Rose, dần làm quen với nhịp độ của các ngày lên lớp, chăm nom bảo vệ
những học trò yếu ớt nhất và lặng ngắm sân trường sôi sục vào giờ ra chơi. Bạn
đọc khám phá, cùng lúc với cô, tấn trò đời con con ấy.
Giống
như Rose, Léon Frapié lấy làm tiếc cho sự gầy còm và thiếu giáo dục của trẻ em
ở Ménilmontant. Tuy nhiên ông lại mủi lòng trước tính tinh nghịch và dữ dội của
chúng. Trong khi cô giáo bắt cả lớp nhắc lại rằng “une mer est une grande étendue dans l’eau salée” (một đại dương là
một vùng nước mặn bao la), thì vài đứa ương
ngạnh lại đồng thanh gào lên: “Ma
grande-mère elle est étendue dans l’eau salée” (Bà ngoại em, bà nằm trong
nước mặn) (Câu này trong tiếng Pháp có nhiều từ đồng âm khác nghĩa!). Vài điểm
chấm phá này khiến cho tác phẩm vốn tăm tối và buồn được vui lên đôi chút.
Thật
khó mà tin được rằng nhà văn Hennri Béraud, lại bị nằm trong danh sách bị lãng
quên này. Ông là tác giả duy nhất được viện Hàn lâm Goncourt trao giải thường này
cho liền hai tác phẩm Le Martyre de
l’obèse (Sự tử đạo của người béo phì) và Le Vitriol de la lune. Nhưng ông đồng thời cũng là một nhà chuyên
viết văn đả kích, bài trừ người Do thái và theo phái Pétain, bị nhà nước Pháp
tuyên án tử hình năm 1944 vì tội liên kết với kẻ thù. Nhưng có rất nhiều nhà
văn, trong đó có François Mauriac can thiệp xin giảm nhẹ tội cho ông. Cuối
cùng, ông được tướng De Gaulle ân xá, nhưng vẫn bị tù trung thân, năm 1950, vì
lý do sức khỏe, ông được ra tù và qua đời tám năm sau đó. Một giai thoại (cần
kiểm chứng thêm), đó là vào năm 1935, ông đã viết một tác phẩm chống lại Anh
quốc với những lời lẽ ý tưởng hết sức dữ dội, tác phẩm mang tên Cần phải biến Anh quốc thành nô lệ.
Nhưng chính Vua nước Anh lại đề nghị tướng De gaulle ân xá cho ông, và lời đề
nghị ấy hẳn đã được chấp thuận. Những niềm tin theo hệ tư tưởng của ông là cái
giá để ông bị tách khỏi trí nhớ cộng đồng. Ai đúng ai nhầm đây?
Hennri
Beraud sinh ngày 21 tháng chín năm 1885 ở Lyon, có cha làm nghề sản xuất bánh
mì, nhưng lại được các anh nuôi ăn học. Thời kỳ đầu, ông làm nhiều nghề khác
nhau: làm thơ, góp phần sáng lập nhiều tạp chí nhưng phần đông, các tạp chí này
đều chết yểu, là người đại diện cho các hãng rượu vang và rượu mạnh, thu gom
bơ, buôn than, buôn đồ cổ... Trong cuộc Đại chiến lần thứ nhất, ông tham gia quân đội pháo binh và
lên đến chức trung úy.
Sự nghiệp phóng viên: ông đầu quân cho tuần báo Canard Enchainé năm 1917. Tại đây ông
cho xuất bản các câu chuyện cổ tích, đăng dài kỳ, và nhất là những bài báo gây
lên những trận bút chiến dữ dội đả kích Thượng viện, Hàn lâm viện, Chính phủ,
các sỹ quan chống-Cộng hòa... Ông còn là nhà phê bình ẩm thực nổi tiếng. Ông
đồng thời cũng là phóng viên quốc tế cho các tờ Petit Parisien và Paris-Soir.
Goncourt: Năm 1922, trong mười lăm ngày, ông hoàn thành một tác
phẩm đầy hài ước Sự tử vì đạo của người
béo phì, và tác phẩm này đã được trao giải Goncourt dưới sự ngỡ ngàng của
tất cả mọi người. Giới truyền thông phẫn nộ, lên án tác phẩm của ông chả có tý
giá trị văn chương nào hết. Cuối cùng, để khiến dư luận dịu đi, viện Hàn lâm
Goncourt đã quyết định, một cách ngoại lệ, trao giải cho hai tác phẩm cùng một
lúc: Sự tử vì đạo của người béo phì và La Vitriol de la lune, - một tác phẩm lịch sử của Béraud xuất bản một
năm trước đó.
Sự tử vì đạo của kẻ béo phì: Là bạn thân của một cặp vợ
chồng tiểu tư sản, nhân vật kể chuyện trong tác phẩm này là một kẻ béo phì,
người mà chúng ta sẽ chẳng bao giờ được biết tên, (chúng ta hãy tạm gọi là
Người kể chuyện) lần lượt được nghe những lời tâm sự tục tĩu khó chấp nhận của
người chồng ong bướm và những dòng nước mắt tuyệt vọng của người vợ bị lăng
nhục. Câu chuyện bắt đầu khi Angèle cuối cùng đã quyết định bỏ chồng khi tận
mắt nhìn thấy anh tay trong tay với một phụ nữ khác. Và chính lúc ấy, Người kể
chuyện bỗng phải lòng nàng, bất ngờ và rất say đắm. Từ đây diễn ra một cuộc
đuổi bắt kỳ lạ xuyên quốc gia: người chồng tìm vợ trong khắp các thủ đô trên
thế giới hòng cố gắng khiến nàng nghĩ lại, trong khi đó thì Người kể chuyện lại
cố gắng đến mức tuyệt vọng để làm hài lòng người đẹp đang chạy trốn kia. Cuối
cùng nàng đến Luân Đôn, ở khách sạn Faisan: người chồng tái xuất hiện, kết tội
Người kể chuyện là kẻ phản bội, và khóc nức nở trước mặt vợ để cố gắng hàn gắn
từng mẩu mảnh cuộc sống hạnh phúc của họ trước đây. Nhưng cô vợ trẻ chẳng muốn
nghe gì nữa, và cuối cùng, họ đành phải chia tay nhau. Angèle, hiện giờ đã biết
Người kể chuyện yêu mình, liền vui vẻ với hắn, nhưng với nàng, cái thứ tình yêu
của “gã béo tốt bụng” kia chẳng đáng kể gì: nàng giả vờ nũng nịu, bắt hắn chiều
chuộng, tát vào má hắn khi hắn có ý định tiến lại gần và cười lanh lảnh trước
tình yêu nhu nhược nhường ấy. Vì bực mình, với một sự trắng trợn thô lỗ và sự
lựa chọn mai mỉa, Người kể chuyện kể thông thống câu chuyện của mình ở quầy bar
quán cà phê, trước một vại bia; hay trên một chiếc ghế băng công cộng với một
gã không kém phần to béo: M. Canabol... Tất cả những biến diễn này, Người kể
chuyện nhanh chóng nhận thấy chúng thành thô lỗ: nếu như đoạn nụ hôn khiến hắn
lẩy bẩy cùng lúc khêu lên trong hắn sự nghi ngờ, thì cảnh cuối cùng, lúc mà
người đẹp ngốc nghếch kia chấp nhận trao thân cho hắn trong một sự hăm hở pha
trộn giữa lòng thương hại và trò giải trí, thì câu chuyện kết thúc. “Gã béo tốt
bụng”, mặc dầu rất tự hào được ra nhập hội “Trăm ký”, mặc dầu đã ca ngợi những
nét quyến rũ của trọng lượng cơ thể mình và tính cách đặc biệt của giới “béo”,
theo ý hắn, một hình bóng “đầy đặn”, thì cuối cũng cũng hết sức xấu hổ đến mức không
dám cởi quần áo, và sẽ ngộ ra thủ đoạn của kẻ phản trắc mà, trong trò chơi nguy
hại này, hẳn sẽ tìm thấy một đề tài bị chế giễu mới. Người kể chuyện rút cục sẽ
rời khỏi Luân Đôn để trở về Paris, và như vậy, chấm dứt giai đoạn tử đạo vì
tình của mình.
La Vitriol de la lune: Xuất bản năm 1921, và đây là
cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Hennri Béraud. Câu chuyện dã sử khá u tối này kể
lại giai đoạn hai mươi năm cuối cùng trong cuộc đời trị vì của vua Louis XV,
những năm tháng khó khăn nhất, những năm tháng mà vị vua trước đây đã từng được
gọi là “Con Cưng” của dân tộc Pháp, thì giờ đây lại bị chính những người dân ấy
căm ghét đến tột độ. Sự trượt dốc dài ấy bị chuyển thành sự hấp hối đau đớn
chậm chạp là điều báo trước cho sự sụp đổ nhãn tiền của triều đình Pháp.
Qua
những cuộc phiêu lưu của một người đàn ông huyền bí có tên Gênois và người cháu
ruột của ông, một người xứ Lyon mơ mộng, tác phẩm quay lại đề tài về vụ khủng
bố chống vua Louis XV vào năm 1757. Vua chỉ bị thương nhẹ nhưng âm mưu ám sát
nhắm vào đấng quân vương đó chỉ là ý tưởng của một kẻ rối loạn tâm thần mà thôi.
Số phận được dành cho kẻ phạm tội giết vua đó thật khủng khiếp và gây ra một sự
bất ổn lớn trong xã hội đương thời, và trong mọi tầng lớp... Kẻ phạm tội bị kết
án tử hình trong những điều kiện thâm độc nhất khiến dân chúng uất ức và phẫn
nộ. Cuộc nổi dậy chống triều đình Pháp bắt đầu một thời kỳ dữ dội nhất, và đây
chính là ngòi nổ cho vụ “ly dị” giữa triều đình và dân chúng Pháp. Nếu như
Damien – Kẻ phạm tội giết vua, - đã sống những ngày cơ cực nhất trong địa ngục
trần gian, thì dần dần, chúng ta cũng khám phá, mười bảy năm sau, thời khắc hấp
hối ê chề của đấng quân vương Louis XV, “Con Cưng” của dân tộc Pháp!
Khi
điểm lại những tác phẩm bị lãng quên, mà khi đọc xong, thì ta thấy chúng bị
quên một cách hình như cố ý! Chứng tỏ một lần nữa, sự dân chủ mà đa phần dân
tộc Pháp và những nhà cầm quyền Pháp vẫn luôn giao giảng trước thế giới, thì
thực chất họ vẫn giữ trong mình một sự cố chấp mà không dám nói ra.
Paris
ngày 19 tháng 10 năm 2012
Hiệu
Constant
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét