Ý nghĩa và nội dung của thập nhị nhân duyên
Thập nhị nhân duyên là một giáo lý rất đặc thù, là cốt lõi của nhân sinh
quan Phật giáo, được đề cập nhất quán trong tất cả các kinh điển. Nhận thức rõ
về học thuyết Thập nhị nhân duyên sẽ giúp Phật tử hiểu cặn kẽ hơn về các vấn đề
khác như nghiệp, luân hồi tái sinh, nhân quả...
>>Phật tử có thể đọc loạt
bài về Kinh Phật
Ý nghĩa của học thuyết thập nhị nhân duyên
Đối với những đệ tử Phật, có căn cơ quán sát nhân
duyên, thì Phật dạy 12 nhân duyên phát khởi ra luân hồi, để các đệ tử ấy tu tập
theo và chứng quả Duyên giác.
Thập nhị nhân duyên là phép tu hành của
Duyên giác thừa, phép này chủ yếu quán sát tất cả các sự vật, cho đến luân hồi,
đều do nhân duyên mà phát khởi, nhân duyên hội họp thì gọi là sanh, nhân duyên
tan rã thì gọi là diệt, sự thật vốn không có cái gì sinh, cái gì diệt cả.
Trước khi Phật ra đời, cũng đã có nhiều
vị tu hành giác ngộ được đạo lý nhân duyên, ra
khỏi luân hồi, đó là các vị Độc giác.
Các vị Độc giác thường quán tất cả các sự vật, dù thân hay cảnh, dù sống hay chết, đều do các duyên hội hợp mà hóa thành như có, chứ không phải thật có. Các vị thường quán các sự vật, chỉ có tánh đối đãi, chứ không có tự tánh. Ví dụ như tờ giấy, nó có những tính cách là mỏng, là vuông, là trắng, những tính cách đó đều là đối đãi, vì mỏng đối với dày mà có, vuông đối với cái không phải vuông mà có, trắng đối với cái không phải trắng mà có, lại tờ giấy là vật có hình tướng, cũng có đối với không mà thành, rõ ràng tờ giấy chỉ có những tính cách đối đãi, ngoài những tính cách ấy ra, thì không chỉ thế nào là tờ giấy được.
Lại tờ giấy là một nhất hợp tướng,
do rất nhiều cực vi kết hợp lại mà thành, ngoài các cực
vi ra, cũng không còn tờ giấy nữa.
Lại tờ giấy có những nguyên
nhân của tờ giấy, nơi tờ giấy, người ta có thể nhận rõ tác
dụng của các nguyên nhân ấy, đã kết hợp như thế nào,
ngoài những tác dụng ấy ra, cũng không thể tìm cái gì là tờ giấy
được.
Quán sát như thế, thì nhận rõ được
các tướng của sự vật đều giả dối, không thật, theo duyên mà phát
hiện, theo duyên mà thay đổi, không có gì là chắc thật cả.
Các vị Độc giác quán
sát như thế, thì ngộ được các pháp đều vô ngã, cảnh cũng vô ngã,
thân cũng vô ngã, cho đến những sự sống, chết đều vô
ngã. Đồng thời, các vị Độc giác cúng ngộ được các pháp vô
ngã như thế, theo duyên mà chuyển biến, mà thường dùng định
lực quán cái có ra không, cái không ra có, làm cho càng rõ thêm sự
thật của mọi sự vật, chứng được bản tánh vô ngã và ra
khỏi luân hồi.
Đối với những đệ tử Phật,
có căn cơ quán sát nhân duyên, thì Phật dạy 12 nhân
duyên phát khởi ra luân hồi, để các đệ tử ấy tu
tập theo và chứng quả Duyên giác.
Mười hai nhân duyên của luân
hồi là một dây chuyền liên tục, chuyền từ khâu này đến khâu khác,
trong một đời cũng như trong nhiều đời. Mười hai nhân
duyên ấy là vô minh duyên ra hành, hành duyên
ra thức, thức duyên ra danh sắc, danh sắc duyên
ra lục nhập, lục nhập duyên ra xúc, xúc duyên ra
thọ, thọ duyên ra ái, ái duyên ra thủ, thủ duyên
ra hữu, hữu duyên ra sinh, sinh duyên ra lão tử.
Nội dung của thập nhị nhân duyên
Cần nhận rõ hành tướng của các nhân duyên, hiểu rõ sự
tác động của nhân duyên này đối với sự phát sinh của nhân duyên khác, dùng phép
quán duyên khởi, diệt trừ những khâu chính trong dây chuyền 12 nhân duyên, để
đi đến chứng được đạo quả của Duyên giác thừa.
Cần nhận rõ hành tướng của
các nhân duyên, hiểu rõ sự tác động của nhân
duyên này đối với sự phát sinh của nhân duyên khác, dùng
phép quán duyên khởi, diệt trừ những khâu chính trong dây chuyền
12 nhân duyên, để đi đến chứng được đạo quả của Duyên giác
thừa.
1. Vô minh: Vô
minh là không sáng suốt, là mề lầm, không nhận được bản
tính duyên khởi chân thật. Do vô minh, nên không biết tất cả sự
vật, dầu thân, dầu cảnh, dầu sinh, dầu diệt, dầu năng, dầu sở, dầu có, dầu
không, đều do nhân duyên hội họp mà giả dối sinh ra,
do nhân duyên tan rã mà giả dối mất đi, đều theo nhân
duyên mà chuyển biến như huyễn, như hóa, không có thật thể.
Chính vì không biết như thế, nên lầm nhận thật có cái ta, thật có cái thân,
thật có hoàn cảnh, rồi do sự đối đãi giữa thân
tâm và cảnh giới, phát khởi ra những tâm
niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng.
2. Hành: Hành,
chính là cái tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng ấy,
nó làm cho chúng sinh nhận lầm có cái tâm riêng, cái ta riêng
của mình, chủ trương gây các nghiệp, rồi về sau chịu quả báo.
3. Thức: Tâm
niệm sinh diệt tiếp tục ấy, theo nghiệp báo duyên ra
cái thức tâm của mỗi đời, chịu cái thân và cái cảnh của loài này hoặc
loài khác.
4. Danh sắc: Các thức theo nghiệp báo duyên
sinh ra danh sắc. Sắc, bao gồm những cái có hình
tướng, như thân và cảnh; Danh, bao gồm những cái không
có hình tướng, như cái sự hay biết, nói một cách khác, là thức
tâm thuộc nghiệp nào, thì hiện ra thâm tâm và cảnh
giới của nghiệp ấy.
5. Lục nhập: Thân tâm đối với cảnh
giới thì duyên khởi ra các sự lãnh nạp nơi 6 giác
quan, nhãn căn lãnh nạp sắc trần, nhĩ căn lãnh
nạp thanh trần, tỷ căn lãnh nạp hương trần, thiệt
căn lãnh nạp vị trần, thân căn lãnh nạp xúc
trần và ý căn lãnh nạp pháp trần.
6. Xúc: Do
những lãnh nạp như thế, mà các trần ảnh hưởng đến tâm hay
biết sinh ra quan hệ với nhau, nên gọi là xúc.
7. Thọ: Do
những quan hệ giữa tâm và cảnh như thế, nên sinh ra các thọ là khổ
thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả thọ.
8. Ái: Do
các thọ đó, mà sinh lòng ưa ghét, đối với lạc thọ, hỷ thọ thì
ưa, đối với khổ thọ, ưu thọ thì ghét và đã có ưa ghét thì
tâm gắn bó với thân, với cảnh, hơn bao giờ hết.
9. Thủ: Do
tâm gắn bó với thân, với cảnh nên không thấy được sự
thật như huyễn, như hóa, mà còn kết hợp được những ảnh
tượng rời rạc đã nhận được nơi hiện tại, thành những sự tướng có
định, rồi từ đó chấp mọi sự vật đều có thật, sự chấp trước như thế,
gọi là thủ.
10. Hữu: Do
tâm chấp trước, nên những sự vật như huyễn như
hóa lại biến thành thật có, có thân, có cảnh, có người, có ta,
có gây nghiệp, có chịu báo, có sống và có chết, cái có như thế, tức là hữu.
11. Sinh: Có
sống, tức là có sinh, nói một cách khác, là do không rõ đạo lý duyên
khởi như huyễn, không có tự tánh, nên nhận lầm thật có sinh
sống.
12. Lão tử: Lão
tử là già rồi chết. Do có sinh sống, nên có già, rồi có chết.
Do mười hai nhân duyên chuyển mãi, từ khâu này đến
khâu khác, trong quá khứ, hiện tại, vị lai, nên chúng sinh chìm đắm mãi mãi
trong đường luân hồi.
Mười hai nhân duyên là một dây chuyền liên
tục, chuyền từ khâu này đến khâu khác trong nhiều đời. Do có vô
minh qua hành ở các đời quá khứ nên duyên
khởi ra thức tâm của đời này. Thức tâm ấy,
theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc, danh
sắc duyên sinh ra lục thập, lục thập duyên
sinh ra xúc, xúc duyên sinh ra thọ. Thức, danh
sắc, lục nhập, xúc và thọ, đều là cái quả báo dị thục của
các nghiệp, đã gây ra từ trước.
Khi tâm chúng sinh chịu
cái quả báo đó, thì do sự đối đãi giữa thân và cảnh lại
sinh ra những điều ưa ghét, đó là ái. Rồi do có ưa ghét, mà gắn
bó với thân và cảnh, chấp là thật có, không biết thân tâm
và cảnh giới đều duyên khởi như huyễn, đó là thủ. Do
có chấp trước, nên mọi sự vật, vốn là huyễn hóa, lại biến
thành thật có, thân cũng có, cảnh cũng có, ý thức phân
biệt cũng có, mình cũng có, người cũng có, rồi từ đó, sinh ra có gây
nghiệp và có chịu báo.
Đã có gây nghiệp và đã có chịu báo, thì
khi hết thân này, nghiệp báo sẽ dẫn dắt vào một thân khác
trong vị lai, đó là sinh, mà đã có sinh thì nhất
định có lão tử.
Nếu xét các duyên, từ đời hiện
tại đến đời tương lai, thì chẳng những cái vô minh sẵn có từ
trước là vô minh, mà thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ cũng đều
thuộc về vô minh. Hành cũng thế, chẳng những các nghiệp quá khứ là
hành, mà các nghiệp hiện tại như ái, thủ hữu cũng đều thuộc về hành.
Như thế, vô minh quá khứ cộng với vô minh hiện tại,
cùng nhau duyên khởi ra thức tâm của nghiệp
báo đời sau. Về nghiệp báo đời sau, thì trong một chữ sanh, đã
gồm đủ thứa, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái và thủ, hữu, thì một
phần thuộc về sanh, một phần thuộc về lão tử. Rồi do trong
đời vị lai này, có gây nghiệp, có chịu báo, nên có sanh và lão
tử đời sau nữa.
Do mười hai nhân duyên chuyển
mãi, từ khâu này đến khâu khác, trong quá khứ, hiện tại, vị lai,
nên chúng sinh chìm đắm mãi mãi trong đường luân hồi.
Nhưng nếu xét cho cùng, thì chẳng những
trong nhiều đời, mà trong một đời, chẳng những trong một đời, mà
trong từng niệm, từng niệm, mười hai nhân duyên vẫn duyên
khởi ra nhau, liên tục không gián đoạn. Trong một đời,
thì chúng sinh do vô minh không nhận đạo lý duyên
khởi như huyễn, nên tâm mới vọng động, đó là hành. Do tâm vọng động mà
có tiềm thức phát khởi liên tục theo nghiệp
báo và duyên ra danh sắc, danh sắc duyên ra lục
thập, lục thập duyên ra xúc, xúc duyên ra thọ, thọ duyên ra ái, ái
duyên ra thủ, và đã có chấp thủ thì có thân tâm,
có cảnh giới, có gây ra các nghiệp huân tập nơi tiềm
thức, cho đến có sự sinh sống, có sự chuyển biến, có già, có
chết. Nhưng sinh, trụ, dị, diệt như thế, xét cho cùng tột, thì từng niệm, từng
niệm, chúng sinh đều có, nên từng niệm, từng niệm cũng đều đầy đủ
12 nhân duyên.
Trong mười hai nhân duyên,
thì nguyên nhân căn bản của luân hồi, tức là vô
minh và nguyên nhân của tất cả sự chuyển
biến trong luân hồi, tức là hành. Chỉ khi nào diệt
trừ được vô minh, thì mới giác ngộ, chỉ khi nào diệt
trừ được hành, thì mới hết sinh diệt, vì thế các vị tu
hành phép thập nhị nhân duyên, cần phải theo đạo
lý duyên khởi, mà quán tất cả sự vật đều duyên sinh như huyễn,
không có tự tánh, để diệt trừ vô minh. Khi phát ra trí tuệ,
trừ được vô minh, thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt
thì danh sắc, lục thập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão
tử đều diệt hết.
Chỉ khi nào diệt trừ được vô minh, thì mới giác ngộ,
chỉ khi nào diệt trừ được hành, thì mới hết sinh diệt, vì thế các vị tu hành
phép thập nhị nhân duyên, cần phải theo đạo lý duyên khởi, mà quán tất cả sự
vật đều duyên sinh như huyễn, không có tự tánh, để diệt trừ vô minh.
Nên nhận rõ 12 nhân
duyên chỉ duyên sinh ra nhau và mỗi khâu, chỉ một nhân
duyên đối với khâu khác, chứ không phải tất cả các nhân
duyên đối với khâu ấy, như vô minh duyên sinh ra hành,
thì vô minh là một nhân duyên, trong nhiều duyên
sinh ra hành, chứ không phải một mình vô minh sinh ra hành.
Nói vô minh duyên sinh ra hành, thì có nghĩa là, nếu thiếu vô
minh làm nhân duyên thì hành không phát
khởi được. Đối với các khâu khác, thì cũng đều có nghĩa như thế. Nhưng,
nếu trong tất cả các duyên tạo thành một khâu, diệt trừ được một
duyên, thì cái khâu ấy quyết định không sinh ra được.
Chính vì vậy, ngược lại, lúc lưu chuyển, khi đã diệt
trừ được vô minh, thì cả 12 nhân duyên đều được diệt
trừ và người tu hành được giải thoát ra khỏi sanh tử.
Trong lúc tu phép quán thập nhị
nhân duyên để ra khỏi luân hồi, nhà tu hành thường quán
theo đạo lý duyên khởi và bắt đầu diệt trừ những khâu
quan trọng, duyên khởi ra phân đoạn sinh tử là ái, thủ và
hữu. Các vị này, nương theo đạo lý duyên sinh, quán biết
thân cảnh đều giả dối, không thật và các thọ sinh ra trong
quan hệ giữa thân và cảnh, vốn không có gì, nên diệt trừ được lòng ưa
ghét. Khi lòng ưa ghét đã diệt trừ thì đối với tất cả các sắc,
đều xem như bóng trong gương, đối với tất cả các tiếng, đều xem
như luồng gió thổi qua, không có gì là chắc thật và cõng không có gì
đáng để ý. Do tâm đối với cảnh không phát sinh ưa ghét và thường phóng xả
như thế, nên sự chấp trước cũng giảm bớt đi, đi đến
bị tiêu diệt hết. Tâm đã không chấp trước, thì thấy rõ mọi
sự vật đều huyễn hóa, không thật có, chính khi sinh, không có gì
đáng gọi là sinh, chính khi diệt, không có gì đáng gọi là diệt, do đó, phát
khởi được trí vô ngã, diệt trì phân biệt ngã chấp và
chứng được bậc sơ tâm của Duyên giác thừa. Từ đó, các vị sơ
tâm dùng trí vô ngã gột rửa lần lần các thói
quen mê lầm, diệt trừ hành ấm, diệt trừ cơ sở vô
minh duyên sinh ra luân hồi và lên quả vô học.
Nói tóm lại, phép tu của Duyên
giác thừa, cũng như của các vị Độc giác, đều dựa vào phép quán
mọi sự, mọi vật đều do nhân duyên mà có sinh diệt,
nhận rõ mọi sự, mọi vật do nhân duyên mà sinh,
nên không thật có sinh, do nhân duyên mà diệt,
nên không thật có diệt, mà chứng được đạo quả vô
sinh diệt. Các vị tu theo Duyên giác thừa, còn quán các sự vật đều do
duyên hợp thành và thường theo duyên mà chuyển biến. Các vị thường
dùng tâm niệm của mình, chuyển đổi những sự vật
này, hóa thành sự vật khác, để trực nhận một cách sâu
sắc đạo lý duyên khởi như huyễn. Do lối tu như thế,
nên các vị Độc giác và Duyên giác thường
có nhiều thần thông và cũng hay dùng thần
thông để hóa độ chúng sanh. Do các vị ấy, chứng được đạo
lý duyên khởi như huyễn, nên phạm vi hóa độ chúng
sanh cũng rộng hơn Thanh Văn thừa và chỗ giác ngộ cũng
gần với Bồ-tát thừa hơn. Vì thế, mà trong kinh có nơi gọi Duyên Giác
thừa là Trung thừa, nghĩa là cái thừa ở giữa Tiểu
thừa và Đại thừa, phát nguyện rộng lớn thì thường mau chóng
chứng được những quả vị của Đại thừa.
Trích theo bài viết của cư sĩ Tâm Minh -
Lê Đình Thám
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét