ảnh
minh hoạ
Khúc
đàn Khổng-Vọng-Vi là tiếng khóc của Đức Khổng Tử, tiếc thương người đệ
tử thân yêu Nhan Hồi, mệnh yểu mà chết sớm khi tuổi còn
thanh xuân. Tiếng khóc bộc lộ tình thầy trò cực kỳ thắm thiết, cực kỳ cảm
động đó đã chạm vào những giây tơ mà bật lên âm thanh, truyền cảm tới
thẳm sâu tâm linh hậu thế.
Nhan
Hồi là người đệ tử được Đức Khổng Tử đặt nhiều kỳ vọng
nhất, vì trí tuệ và đạo hạnh vượt trội trong
hàng môn đồ. Vậy mà một lần Nhan Hồi suýt bị hàm
oan và Đức Khổng Tử sẽ mang niềm ân hận khó xóa
nhòa, nếu hàm oan đó không tình cờ bộc bạch.
Đó là thời Đông Chu, chiến tranh lan tràn, khắp nơi dân chúng lầm than đói
lạnh. Đức Khổng Tử dẫn môn đồ từ nước Lỗ sang đất Tề để tùy
thuận tùy duyên mà an ủi khổ đau bao người.
Dân đói thì thầy trò cùng đói, thực phẩm khi có, khi không, vẫn một
lòng vững bước. Tới đất Tề, một phú ông cảm động, đã cúng
dường một phần gạo để thầy trò tạm no lòng. Nơi dừng chân, Nhan Hồi lãnh nhiệm
vụ nấu cơm, trong khi các bạn đồng môn vào rừng kiếm thêm
rau trái.
Đang
đọc sách gần nơi đặt bếp nấu, Đức Khổng Tử chợt nghe những tiếng
động hơi bất thường từ đó phát ra. Nhìn qua vách liếp, Ngài thấy Nhan
Hồi mở nắp nồi, rồi đậy lại, rồi lại mở; và sau đó, lấy đũa vét mấy nắm
cơm, nhìn quanh trước sau rồi đưa cơm vào miệng.
Đức Khổng Tử bàng hoàng, không thể tin nơi những gì chính mắt mình vừa
nhìn thấy. Trời ơi, người học trò mình hết lòng tin yêu mà cũng bị
cái thèm, cái đói làm tan vỡ bao kỳ vọng! Chỉ ăn vụng mấy miếng cơm
mà Nhan Hồi không còn là Nhan Hồi nữa! Đau đớn thay! Thất
vọng thay!
Khi cơm và rau được dọn lên bàn thì Nhan Hồi bèn chắp tay thưa
rằng:
- Bạch Sư Phụ, trước khi bưng cơm lên, con có mở nắp nồi, xem cơm đã chín chưa, thì một luồng gió mạnh chợt ập tới, khiến những bụi bẩn trên nóc bay cả xuống nồi cơm. Con lấy đũa gạt, định bỏ phần cơm bẩn đi, nhưng nghĩ cơm ít mà huynh đệ đông, bỏ đi phần cơm bẩn thì phần của mỗi huynh đệ phải bị bớt một ít, nên con mạn phép Sư Phụ, đã ăn phần cơm bẩn đó. Bây giờ, con chỉ xin nhận phần rau thôi, vì đã ăn cơm rồi.
Như ngàn cân trĩu nặng trong lòng vừa được buông xuống, Đức Khổng
Tử đã không ngăn nổi xúc động, ngước mặt nhìn trời mà than: “Tạ ơn Trời
Đất, chút xíu nữa thôi, là Khổng Tử này đã vội hồ đồ, kết tội
oan đệ tử. Hóa ra trên đời có những điều chính mắt ta nhìn vậy, mà
không phải vậy!”
Sau đó, sự việc này là một đề tài sâu sắc để quán chiếu và học hỏi,
không phải chỉ cho môn sinh thời đó mà câu chuyện Nồi-Cơm-Khổng-Tử
vẫn là bài học quý giá đến ngày nay.
Người đệ tử ưu tú đó lại mệnh yểu, sớm rời thầy, xa bạn mà về
cõi vĩnh hằng!
Ai có
thể cảm thông hết nỗi bi thương trong lòng thầy, ở giây
phút tiễn đưa vĩnh biệt đệ tử! Có lẽ phút giây đó tình nghĩa thầy
trò đã vượt qua ranh giới của đời-thường, mới khiến những giây
tơ, tưởng như vô tri mà bật lên cung bậc cực kỳ rúng động.
Tiếng khóc nghĩa tình đó lặng thầm mà chảy dài tới thời Xuân Thu Chiến Quốc,
cho nhân gian lại được trân quý cái đẹp toàn bích của Tình-Bạn-Tri-Âm.
“Bá Nha-Tử Kỳ” trở thành cụm từ chung, khi ai đó muốn nói đến
tình tri kỷ.
Bá Nha làm quan ở nước Tần, tới chức Thượng Đại Phu.
Tử Kỳ là kẻ tiều phu đốn củi nuôi cha mẹ già, gần núi Mã Yên, ven
sông Hán Dương.
Một
lần đi sứ, Bá Nha cùng đoàn tùy tùng qua tới nơi này.
Nhằm đêm trăng sáng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha truyền thuộc hạ dừng
thuyền ven sông, pha trà, đốt hương trầm rồi nâng cây đàn quý lên, so
giây, nắn phím. Và bao rung cảm của một tâm hồn nghệ sỹ quyện
vào cung tơ …
Giòng cảm xúc đang rạt rào bỗng bất ngờ bặt tiếng.
Đàn bỗng đứt giây.
Trăng bỗng lặn.
Ai? Ai đang nghe lén tiếng đàn này? Chỉ có người nghe lén mới
khiến đàn đứt giây! Bá Nha tin như thế. Và lạ thay, từ trên bờ, một người bước
ra khỏi bụi lau, rồi lên tiếng:
-Kẻ tiều phu đốn củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe được tiếng đàn
khiến chân không thể bước tiếp.
Bá Nha nghe vậy, khó ngăn được lòng mà không hỏi:
-Hỡi kẻ tiều phu quê mùa, nghe tiếng đàn mà không bước tiếp được, vậy có biết
ta đang khảy khúc đàn gì không?
Bá Nha kinh ngạc khi Tử Kỳ từ tốn trả lời:
-Thưa đại nhân, đó là khúc đàn Khổng-Vọng-Vi, là tiếng khóc của Đức Khổng
Tử khi tiễn biệt đệ tử Nhan Hồi. Tiếng khóc đó khi chuyển
vào tiếng đàn thì được lồng trong bốn câu:
“Khá
tiếc Nhan Hồi, yểu mạng vong
Dạy người tư tưởng, tóc như sương
Đàn, bầu, ngõ hẹp, vui cùng đạo ….” (*)
Đại
nhân dạo tới đây thì đàn đứt giây. Câu thứ tư là:
…
Lưu mãi danh hiền với kỷ cương” (*)
Chỉ thế thôi. Chỉ cần trao đổi chừng đó thôi mà sức mạnh vô
hình của tình tri kỷ đã phá vỡ tan ranh giới giữa địa
vị, giầu sang, danh vọng và vô danh, nghèo đói, quê mùa …
Với
cây đàn quý, Bá Nha đã từng gảy những tiết tấu cô đơn:
“Tri
thức mãn thiên hạ
Tri âm năng kỷ nhân”
Thiên
hạ biết bao người
Tri
âm nào có mấy!
Vậy
mà, ở phút giây bất ngờ nhất, họ đã được gặp nhau, được có nhau là tri
âm, tri kỷ, được thọ hưởng niềm hạnh phúc không gì mua
được vì tình này không phải món hàng, không ai rao bán!
Kẻ tiều
phu đó, nào phải quê mùa, mà là một trí sỹ, sống ẩn dật đốn củi vì
còn phải phụng dưỡng cha mẹ già.
Người
ra làm quan nước Tần đó, nào phải ham danh lợi, mà vì tâm nguyện làm sứ
giả kết nối giao tình với quê hương là nước Sở.
Họ là
hai nửa mảnh đời của nhau mà trong mênh mông trời đất, phải có ngày gặp
được nhau để kết nghĩa anh em.
Khi
chia tay, họ hẹn ngày tái ngộ là mùa thu năm sau, cũng nơi này, dưới
chân núi Mã Yên.
Nhưng
khi Bá Nha trở lại thì Tử Kỳ chỉ còn là một nấm mồ xanh cỏ!
Ôi,
tiếng khóc Đức Khổng Tử tiễn biệt đệ tử, với tiếng khóc Bá
Nha vĩnh biệt bạn tri âm là những giòng-lệ-khô. Nước mắt này chảy ngược
vào tim chứ không òa vỡ được cùng sông, cùng suối.
Bá
Nha quỳ bên mộ Tử Kỳ, nâng cây đàn Dao Cầm ngang trán, cất tiếng thảm
thiết:
“Dao
Cầm đập nát, đau lòng phượng
Đàn vắng
Tử Kỳ, đàn với ai?
Gió
Xuân khắp mặt, bao bè bạn
Muốn
kiếm tri âm, ôi khó thay!” (*)
Dứt lời,
Bá Nha giơ đàn lên cao, rồi đập mạnh vào vách núi.
Đàn vỡ
tan từng mảnh!
Ôi! Đời
nay, Tình Nghĩa Thầy Trò – Tình Bạn Tri Âm còn có là bao, mà làn gió
thoảng trong không gian dường như vẫn vời vợi âm thanh cô
quạnh “Tri thức mãn thiên hạ, Tri âm năng kỷ nhân!” …
Huệ
Trân
(Tào-Khê tịnh
thất – Nghe lá chuyển mùa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét