AFGHANISTAN – PHẬT QUỐC NGÀY XƯA
và bài học chiêm nghiệm về Vô Thường cho ngày nay
Thích Nữ Giác Anh
và bài học chiêm nghiệm về Vô Thường cho ngày nay
Thích Nữ Giác Anh
Afghanistan
thuộc vùng Trung Á, hiện nay là Cộng Hòa Hồi Giáo Afghanistan, thủ đô là
Kabul, điều
hành theo chế độ Tổng Thống. Láng
giềng sát bên phải, từ phía đông xuống phía Nam là nước Pakistan. Phía Tây
sát biên
giới các nước Iran, Turkmenistan,
Uzbekistan, và giáp biên
giới phía Bắc là Tajikista. Xa xa
viễn đông Bắc là Trung Hoa. Xa xa viễn đông Nam là Ấn Độ,
xa xa về phía Tây Bắc qua Thổ Nhĩ Kỳ rồi đến Hy Lạp, xuống phía Tây Nam xa là
các nước khối Trung Đông. Vì vị trí của Afghanistan là trung tâm nối liền giữa các quốc gia từ bờ Đông qua bờ Tây như thế,
nên từ 2000 năm trước, vùng đất này đã là một trong những trung tâm sầm uất trên con đường tơ
lụa nổi
tiếng.
Hiện
nay (2017), từ Sydney muốn đi Kabul, khoảng cách 11,000 km, các chuyến bay phải
stop over ít
nhất một trạm, hoặc ngừng ở Dubai nếu
đi hãng Emirates, hoặc ngừng ở Dubai và New Delhi nếu bay với hãng Qantas của
Úc. Tổng cộng mất ít
nhất 21 tiếng đồng hồ trở lên. Nhưng
vẫn gần hơn từ Sydney đi Luân Đôn hoặc các nước Âu Châu khác, đường dài đến
17,000 km, mất trên 23 giờ bay.
Các thương gia thời
xưa buôn bán hàng hóa từ Trung Hoa
qua tận Âu Châu. Lúc
đầu, chủ yếu là buôn bán vải vóc, tơ lụa…
nên sau này, con
đường thương mãi đó, lấy luôn tên
là con
đường tơ lụa The Silk Road. Người
Trung Hoa sản suất tơ lụa từ rất sớm, vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch,
nên con
đường thông thương này cũng dần dần bắt
đầu từ lúc đó. The Silk Road bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh, Tây An – Trung Quốc, sau đó qua
Mongolia, Ấn
Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq,
Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung
quanh vùng Địa Trung Hải Mediterranean Sea và đến tận châu Âu. Con đường này cũng dẫn đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản.
Nó có chiều dài 6,437 km. Phương
tiện giao thông ngày xưa là
đi bộ, ngựa, lừa, lạc đà… Có nhiều nơi phải qua biển thì dùng thuyền. Các nhà
khảo cổ cho
biết, con đường này chính thức hoạt
động từ năm 120 trước Tây lịch, cho đến năm
1450 mới ngừng sử
dụng. Một con đường dài gần 6,500 km, hoạt động gần 1,570
năm, quả
thật trên thế giới đâu
có con
đường nào có chiều dài và tuổi thọ cao
như thế !
Chính
vì vị
trí trung tâm quá tốt của
Afghanistan, nên thời nào, các nước mạnh cũng đều muốn đến chiếm vùng đất đó.
Vậy mới thấy Phật dạy quá đúng, trên thế gian này, không có cái gì tốt mà thật
sự tốt!
Từ
trước Tây lịch đến
nay, Afghanistan từng nhiều lần bị xâm lược và chinh phục. Từ đế quốc Ba Tư Bactria, đến Hy Lạp vua Alexandros đại đế,
vua xứ Ấn
Độ, người Ả rập Hồi giáo,
người Turk, du
mục Mông cổ… Gần đây,
vào thế kỷ 19, có thời
gian Afghanistan là thuộc địa của
Anh. Sau đó Nga đến chiếm, và bây giờ là Hoa Kỳ và các nước khối NATO đang trợ
giúp phần chính củng
cố lại đất nước sau chiến tranh với
Taliban.
Phật Giáo tại
Afghanistan ngày
xưa
Theo kinh điển Pali Nam Truyền, có ghi lại câu chuyện về hai thương nhân, tên Tapassu Đế
Lê Phú Bà và Bhallika Bạt
Lê Ca, từ xứ Bactria tìm đến viếng đức Phật và
đã trở
thành 2 đệ tử tại gia đầu
tiên. Xứ Bactria là một phần phía Bắc Afghanistan ngày nay.
Trong
sử Phật
Giáo ghi rõ, có hai vị thương nhân dẫn đoàn người buôn từ Bactria - Afghanistan qua Ấn Độ mua bán hàng
hóa. Trên đường từ Ấn
Độ trở về, ngang qua vùng Bồ Đề Đạo Tràng, lúc đó Đức
Thế Tôn cũng vừa chứng đạo vào tuần thứ ba. Quá sửng sốt và vui mừng được diện kiến một bậc phi phàm như Đức Phật,
hai vị
cư sĩ này cung kính dâng lên cúng dường Ngài bánh
đập và mật ong. Đức
Phật giảng cho hai ông nghe một thời
pháp ngắn, và họ đã xin quy
y với Ngài.
Lễ truyền giới quy y đầu
tiên lúc đó chỉ có nhị bảo: Quy y Phật và Quy y Pháp, vì lúc
ấy chưa có chư Tăng. Đức Phật tặng
cho họ vài sợi tóc đem về quê hương làm kỷ niệm. Đối với hai thương nhân này, xá lợi tóc của Phật quí báu hơn bất
cứ vật
báu nào trên thế gian.
Lúc về xứ, họ đã xây nhiều đền đài thờ Phật và thờ xá lợi.
Có thuyết cho rằng, sau này một trong 2 doanh nhân trở thành Phật
tử thuần thành, còn vị
kia xuất
gia và đắc quả A la hán. Xá lợi tóc
đó, theo thời
gian lưu chuyển, hiện nay đang
được thờ tại tại chùa Vàng Schwedagon gần Rangoon, Miến Điện và 2 sợi tóc khác
thờ tại một hòn đá thiêng ở Kyaitiyo, cách Rangon chừng 200 cây số. Như vậy,
hai vị đệ
tử cư sĩ tại gia đầu tiên của Đức Thế Tôn là 2 doanh nhân business man, người Afghanistan vậy.
Cho đến hơn 1,000 năm, sau khi
Phật nhập
diệt, Ngài Huyền Trang (602-664), theo con đường The Silk
Road đi bộ đi từ Trung Hoa qua Ấn Độ thỉnh Kinh. Trên đường đi, Ngài
cũng đi ngang qua Bactria - Afghanistan, Ngài thấy nơi đây đã là một trung tâm Phật
Giáo hưng thịnh. Hưng thịnh hơn nhiều
lần so với nước Pakistan vừa mới đi qua.
Lộ
trình Ngài Huyền
Trang đi bộ từ Trường An (thành phố Tây An – Trung Quốc bây giờ),
băng qua Vạn
lý trường thành The Great Wall, qua
Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan, qua Afghanistan, đến Pakistan, rồi xuống
vào Ấn
Độ. Ngài bắt đầu đi từ năm 629, lúc đó
Ngài 27 tuổi. Ngài về lại quê hương năm 645, Ngài 43 tuổi. Chuyến thỉnh Kinh
của Pháp
sư Huyền Trang thời gian bộ hành vừa đi và về trong vòng 16 năm, qua
16,000 km đường bộ, đem về vô số kinh điển cho Phật Giáo Trung Hoa. Sau chuyến Tây du, về lại Trường An, Ngài Huyền
Trang cùng đại Tăng ra
sức phiên
dịch Kinh điển từ tiếng Ấn
sang tiếng Hoa, ròng rã 19 năm. Ngài thị tịch vào năm 62 tuổi.
Theo bút ký Ngài Huyền Trang kể lại, vào khoảng năm 629 –
630, tức hơn một năm sau ngày khởi hành, Ngài đã
đến Đại
Hạ, Trung Á. Đại Hạ tức
là vùng Bactria, biên
giới phía Bắc Afghanistan bây giờ.
Đây là một trung
tâm Phật giáo rất sung
thạnh thời đó. Bactria sau này đổi tên là Balkh. Khi Ngài đến, Balkh đã là một
thành phố Phật
Giáo rất văn minh và giàu có.
Ngài Huyền Trang ở lại trong một tu viện lớn nhất vùng đó, tu viện tên
là Nava Vihara. Nava Vihara vừa là ngôi chùa, vừa là trung tâm nghiên
cứu Phật Giáo, được sánh ngang
với Đại
Học Phật Giáo Nalanda
của Ấn
Độ thời bấy giờ. Ngài nghỉ lại đây
một tháng. Ngài kể, đây là ngôi chùa lớn nhất và đẹp nhất trong suốt quá trình hành hương của Ngài.
Suốt một tháng đó, Ngài vừa nghỉ ngơi, thuyết pháp và đảnh lễ xá lợi Phật.
Sở dĩ, vùng Balkh này hưng thạnh vì có một
thời, Balkh là một trung
tâm dừng chân của Alexandre Đại Đế
vào những năm 329-327 trước
Công nguyên. Khi Ngài Huyền Trang đến vùng Balkh này, Phật Giáo đã chính thức có mặt ở đây hơn 900 năm rồi. Nếu không kể hai vị thương nhân đệ tử Phật
đầu tiên từ thời Phật tại
thế, Phật Giáo cũng
đã chính
thức truyền vào Afghanistan từ những
năm 305 trước
Công nguyên. Thời kỳ này, các vua Hy Lạp bang giao với vua Ấn Độ, cùng giới thiệu văn
hóa, nghệ thuật và kiến trúc đặc trưng
kiểu Hy Lạp - Ấn
Độ vào nước Afghanistan này. Ngày
nay, các nhà khảo cổ đã tìm được những tranh vẽ về Đức Phật mang
phong cách Hy Lạp, bắt nguồn từ đây.
Cũng
vào thời
gian vài trăm năm trước Công nguyên, Bái
Hỏa Giáo (Zoroastrian) là tôn giáo bản địa của
vùng Afghanistan này, tôn
giáo này thờ Lửa. Vì thế, thỉnh thoảng chúng
ta thấy tranh ảnh Phật Giáo, có dấu
tích hay hình ảnh của
Lửa, được xem là bắt nguồn từ sự trao đổi văn hóa giữa Phật Giáo và Bái
Hỏa Giáo xảy ra tại Afghanistan thời kỳ này.
Sau
đó, đến thời Vua
A Dục (304 – 232 BC), Phật Giáo được thăng hoa dưới sự hoằng truyền của A Dục Vương. Sau vua
A Dục, những vị vua tiếp theo của Afghanistan cũng là Phật tử,
nên Phật
Giáo càng phát triển hưng thạnh.
Trong đó có vua Menander đệ I, tiếng Pali là vua Milinda, cai trị từ năm
165-135 trước
Công nguyên. Vua Milinda, nổi tiếng là
một Phật
tử thuần thành và thậm thâm kinh
điển. Vua thường cung thỉnh chư Tăng vào
triều thuyết
giảng, xây dựng đất nước theo tinh thần Phật
Giáo.
Nền
kinh tế và văn
hóa Afghanistan dưới thời Vua
Milinda rất sung
túc và phong phú, có nét tương đồng như Phật Giáo dưới thời
Lý, Trần của Việt
Nam ta vậy. Lòng mộ đạo của Vua rất thâm sâu. Vua đã không ngại cung thỉnh các
bậc cao
Tăng đến xứ mình để hoằng truyền giáo pháp. Đặc biệt trong số đó, Vua Milinda đã cung
thỉnh được tổ
sư Long Thọ từ phía Nam Ấn Độ sang.
Có những lúc, Đức vua còn thỉnh Tổ sư lâm triều để có nhân duyên học
đạo riêng. Cuộc hỏi đạo đó
được sao chép lại dưới dạng bản Kinh “Milinda vấn đạo” (còn gọi Na Tiên Tỳ Kheo Kinh) nổi
tiếng trong tạng Kinh tạng ngày nay.
Sau thời kỳ vua
Milinda, từ miền Bắc, chư
Tăng theo đoàn thương buôn,
trên con
đường tơ lụa đi xuống xa hơn để hoằng pháp. Từ đó nhân
duyên Phật Pháp được lan
rộng xuống phương Nam. Từ thế kỷ thứ hai sau công nguyên trở
đi, thương
nhân và chư Tăng thường
dừng lại nghỉ ngơi tại thung lũng bình yên, cảnh trí tuyệt đẹp của
Bamiyan. Bamiyan là vùng đồng bằng thung lũng cách thủ đô Kabul bây giờ 246 km
về phía Tây. Theo nhân
duyên, Bamiyan dần dần đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn thứ hai của Afghanistan sau Balkh.
Đến
thế kỷ thứ tư, thứ năm, nơi đây xuất hiện nhiều
bậc Luận
sư, Tổ sư nổi tiếng trong Phật Giáo. Các nhà khảo cổ đang có thêm chi tiết về xuất xứ của Sơ Tổ Thiền Tông Trung Hoa là Ngài Bồ Đề Đạt Ma. Các sách Phật Giáo Trung Hoa cho rằng, có thể Ngài sinh khoảng năm
470, thị
tịch vào năm 543 sau Công nguyên. Ngài đến Trung Hoa từ phương Tây, có thể đến từ Nam Ấn hoặc
các nước vùng Trung Á. Mặc dù niên đại chính xác cũng
như nơi
sinh của Tổ đến nay vẫn
chưa được chính
thức tuyên bố, tuy nhiên, ngày càng nhiều
minh chứng xác minh Tổ Bồ
Đề Đạt Ma đã đến từ vùng Bamiyan này.
Hai tượng Phật vĩ đại nổi tiếng được khắc
vào đá cũng ở vùng Bamiyan – Afghanistan. Tính từ khi Đức Phật nhập diệt cho
đến 900 năm sau, hai tượng Phật này được xem là hai pho tượng cao nhất thế giới.
Thời điểm chư
Tăng và quí vị cư sĩ Phật tử tạc
pho tượng nhỏ, cao 38m, là vào năm 506. Nhưng theo tài liệu khảo
cổ của Afghanistan, có thể tượng được khắc vào khoảng thế kỷ thứ
hai, thứ ba sau
công nguyên.
Vào
năm 554, một pho tượng khác cao hơn - 53m - cũng đã được chư Tăng và Phật tử khắc
vào đá hoàn
thành. Các bức tượng nguyên thủy được nghệ nhân thời bấy giờ dùng màu hoàng kim từ các
loại bột đá tô khắc lên. Nhìn từ rất
xa, đã thấy bóng
dáng vàng rực uy nghi của Đức Phật.
Thời gian trôi qua,
75 năm sau ngày khánh thành tượng Phật lớn 53m đó,
vào năm 629, Ngài Huyền
Trang bộ hành từ Trung Hoa sang vùng
Bamiyan này, Ngài còn có dịp đến đảnh lễ và ghi lại vào bút ký hình ảnh hai tượng Phật vĩ đại. Chúng ta có thể tưởng tượng được khung
cảnh trang
nghiêm, hùng vĩ và phồn thịnh của vùng Bamiyan, chúng ta cũng có thể tưởng tượng
tấm lòng
mộ đạo, sùng tín và cung kính của chư Tôn đức Tăng Ni và hàng cư sĩ Phật tử đối
với giáo
pháp Đức Phật vào thời đó vĩ đại như thế nào.
Hiện
nay các nhà khảo cổ đến vùng đất này, còn thấy thêm hình dáng một tượng Phật ngồi vĩ
đại, chiều cao 30m – 40m, tượng cũng được khắc vào đá, vị trí tại
khoảng cách giữa hai pho tượng đứng. Nhưng dấu tích đã bị hủy hoại từ rất lâu, chưa
được xác minh.
Nhờ
địa lý quần thể núi đá của Bamiyan này, mà chư Tăng và cộng đồng Phật
tử Afghanistan ngày xưa đã
biến nơi này thành một quần thể thánh tích Phật giáo. Ngoài ba pho tượng Phật lớn đó,
còn tìm
thấy hơn 2000 hang động Phật Giáo lớn nhỏ. Trong đó có Chùa viện, Chánh điện, Thiền
đường, Tăng xá… nơi nào cũng có hình Đức Phật khắc
vào vách đá, nay đã hư hoại nhiều, tất cả đều có niên đại từ 1300
- 1800 năm. Quần thể này lớn hơn nhiều lần so với quần thể hang động Phật Giáo ở Ajanta – Nam Ấn.
Đặc biệt hơn nửa, theo bút ký của
Ngài Huyền
Trang, khi Ngài đến đây có nhắc đến tượng Phật nằm, chiều dài của tượng Ngài dùng bằng “lý”, tính ra
mét là khoảng 300m. Hiện nay các nhà khảo cổ đang ra sức tìm kiếm tượng Phật nằm dài 300m này, đang bị chôn vùi đâu đó cũng
tại vùng Bamiyan. Dẫn
đầu đoàn khảo cổ là Giáo sư Khảo cổ
học Zemaryalai Tarzi, giám đốc Viện Khảo Cổ Afghanistan từ những năm
1970. Sự
kiện hai tượng Phật đứng bị Taliban phá hủy năm 2001, có lẽ Giáo sư là
người chứng
kiến và đau lòng nhất.
Ông đã ra sức kêu gọi bảo
vệ hai tượng Phật đó từ rất lâu, nhưng cuối cùng phải ngậm ngùi trước sự thật đau lòng.
Khi
được các nhà báo Hoa Kỳ phỏng
vấn cảm tưởng của Giáo sư
như thế nào khi lần đầu tiên được thấy tượng Phật khắc vào đá
vĩ đại vào mấy mươi năm trước, Ông trả lời: “Sau chuyến hành trình đầy gian nan và nguy hiểm, vượt qua 2
chặng đường dài, dưới sự kiểm
soát của Taliban, cuối cùng chúng
tôi cũng đến được nơi ấy. Đầu tiên,
bạn sẽ thấy choáng ngợp trước khung cảnh tuyệt vời của thung
lũng, vừa xanh tươi, vừa quyến
rũ, vừa yên bình. Khi bạn đứng trước
Phật, tự dưng sẽ không nói được lời nào, bạn thấy mình trở nên quá nhỏ nhoi.
Bạn sẽ khởi niệm nhún nhường và khiêm hạ. Đứng trước pho tượng vĩ đại như thế,
bạn sẽ tự hỏi những nghệ nhân vĩ đại ngày xưa là ai. Thật quá đỗi ngạc nhiên và tràn đầy cảm hứng”.
(After
a very exhausting trip through two big passes that were then in the hands of
the Taliban, we finally arrived. At first you are completely blown away by the
spectacular landscape of the valley – green, lush, and peaceful. When you are
in front of the Buddhas, you are speechless, you feel very small and you have
humility. In front of such masterpiece of sculpture, you wonder about the
artists who made them. It was a huge surprise, and I was full of enthusiasm).
(Theo www.asianfoundation.org,
11/6/2014)
Trong bút ký Ngài Huyền Trang còn kể, có một tu viện gần chùa Nava Vihara nơi
Ngài cư
ngụ, chùa này chuyên tu Thiền Vipassana. Suốt khoảng thời gian Ngài Huyền Trang đến đây,
toàn khu vực Afghanistan đa
số đều tu theo truyền thống Phật
giáo Nguyên Thủy, văn hệ Pali. Tổng số thời gian Ngài Huyền Trang ở lại
Afghanistan là 4 tháng.
Phật giáo tại
Afghanistan tiếp
tục phát triển cho đến năm
642, tức là chỉ 13 năm sau khi Ngài Huyền Trang rời khỏi
nơi đây, khi người Hồi bắt đầu chiếm Afghanistan, chư Tăng và
chùa viện bắt đầu bị tàn phá dần dần.
Sự suy tàn của hình tượng Phật
Giáo tại nơi đây kéo dài ròng rã 400
năm, đến thế kỷ thứ 11, Phật
Giáo chính thức không còn ở
Afghanistan nữa.
Đất nước
Afghanistan ngày nay
Ngày xưa Afghanistan là thế, còn ngày nay
thì sao? Ngày nay, tiền tệ Afghanistan tính bằng rupee Afghanis. Một đồng Úc
đổi được 50 đồng rupee Afghanis. Dân chúng Afghanistan rất nghèo, theo thống kê
năm 2016, Afghanistan là nước nghèo nhất Châu Á. Ở đâu cũng có khu nhà ổ chuột.
Một ngày người dân chỉ tiêu 2 đồng tiền Mỹ thôi,
cũng không có khả năng.
Afghanistan
có tình
hình chính trị bất ổn nhất thế giới
hiện nay. Kể cả những người giàu nhất nước này cũng muốn bỏ nước ra đi. Nhưng
sự nghèo
đói vẫn chưa phải là điều tệ hại
nhất ở nơi đây. Nạn bắt cóc, đánh bom, giết người liên tục xảy
ra. Buôn bán ma
túy, súng ống, quốc cấm… là chuyện xảy ra
hàng ngày, hàng giờ trên khắp các nẻo đường.
Nhưng
có thể niềm đau hơn hết, là lòng thương cảm giữa con người và con
người đã trở nên hiếm thấy trên mãnh
đất này. Nơi đâu không có tình
thương, nơi đó mới chính thật là khô cằn nhất. Tại các quốc gia phát
triển như Úc Đại Lợi chẳng hạn, người dân được chính phủ bảo hộ tối
đa trong khả năng có thể. Học vấn và y tế là hai lĩnh vực chính phủ quan tâm hàng
đầu. Trẻ em đi học và bệnh nhân đi khám bệnh không tốn tiền. Người lớn tuổi,
người khuyết tật và cựu chiến binh… được Bộ xã hội Central Link giúp tài chánh mỗi
hai tuần. Hệ
thống an sinh của Úc, được liệt kê vào
hàng Top Ten trên thế
giới. Con người ở đây
được tôn
trọng, được vinh danh, nên đại đa số đều quí mến lẫn nhau. Đến chim thú ở đây cũng được bảo hộ và thương mến.
Thật đau lòng,
khi giới báo
chí cho biết, người dân Afghanistan ngày nay, đàn
ông nào cũng biết dùng súng. Nhìn nhau qua súng ống, nói chuyện bằng súng ống,
xử lý nhau bằng súng ống. Ra đường, nghe tiếng “đùng.. đùng…” của đạn nổ là
chuyện bình
thường. Ánh mắt giữa người và người nhìn
nhau lạnh
lùng, sắt thép. Quang cảnh đó thật đáng sợ và kinh hãi.
Vào
tháng 3 năm 2001, quân phiến loạn Taliban của Afghanistan đã phá hủy 2 tượng Phật vĩ đại tại chân núi Bamiyan. Dân chúng khắp thế giới đã
biểu tỏ sự đau
lòng về sự kiện đó. Tiếp theo là vụ khủng bố bằng máy bay của Taliban vào Hoa
Kỳ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Cuối năm 2001,
quân đội Hoa Kỳ và đồng minh đã tiêu diệt quân khủng bố Taliban
tại Afghanitan, chấm
dứt tổ chức Taliban trên xứ này.
Tình trạng tối tăm của
Afghanitan hiện nay là thế, nhưng may thay, ở đâu có bóng tối, ở đó sẽ có ánh
sáng. Bóng đêm càng dày đặc, ánh sáng càng sáng ngời.
Mặc
dù chính trị bất ổn, vai
trò người nữ ở các nuớc Hồi luôn bị
khinh khi, nhưng cũng chính nơi đó, đã trổi dậy những tấm gương anh hùng.
Một trong những anh
hùng đó là nữ phi công đầu tiên trong
quân đội Afghanistan – Cô Niloofar Rahmani, năm nay 26 tuổi (2017). Cô là nữ
đại úy đầu tiên trong quân đội Afghanistan dưới sự huấn luyện của Hoa Kỳ. Cô
tốt nghiệp học viện không quân năm 2012 và được bố trí bay máy bay vận tải quân
sự C-208, sau đó được cử sang Mỹ để học chuyển loại chuyên cơ quân sự tối tân hơn
C-130.
Cô
Rahmani cố
gắng phấn đấu hết mình, dù trãi qua
bao khó khăn nghịch
cảnh, đối đầu với tính cổ hủ, thủ cựu và tiêu cực của xã hội,
thậm chí còn có lúc nguy hiểm đến tánh mạng, nhưng lòng anh dũng của
Cô đã vượt thắng tất cả. Cô đã thực sự truyền cảm hứng vào
giới phụ
nữ Afghanistan và phụ nữ trên
toàn thế
giới.
Trong buổi lễ tốt
nghiệp, Cô phát
biểu rằng “Bạn không thể chỉ
xem bản
thân mình như một phụ nữ, mà phải xem mình bình đẳng như
bao con
người khác. Và hãy vững tin vào chính
mình!”. Cô được Hoa Kỳ trao tặng Huân
chương Anh
Hùng Quả Cảm vào năm 2015. Hiện nay Cô đang
di dân sang Mỹ để tiếp
tục con đường cống hiến cho nền hòa bình thế giới.
Chiêm nghiệm bài
học về Vô
Thường
Afghanistan
là thế, từng một thời hoa
mỹ, tráng lệ. Bây giờ đau khổ,
đói nghèo. Từng một thời nhân văn, nhân bản, bây giờ binh biến, thê lương. Từng một thời đạo giải thoát làm huy
hoàng cho xứ sở này, bây giờ đạo ấy không còn, xứ sở đó trở nên đau khổ hơn
bất cứ nơi nào khác trên thế
giới ! Hướng về Afghanistan, nhìn thấy
sự đến và đi, để chiêm
nghiệm về bài học vô thường.
Sau
khi thành
đạo dưới cội Bồ Đề 49
ngày, Đức
Phật đến vườn Nai để chuyển bánh xe Pháp cho loài người. Bài Kinh Phật
dạy thứ hai, sau Kinh Chuyển
Pháp Luân là Kinh Vô Thường. Phật dạy, các pháp từ vật lý đến tâm lý đều
không ngoài năm
uẩn tạo thành. Năm uẩn hay
còn gọi là năm tập hợp; tập hợp Sắc, tập hợp Thọ, tập hợp Tưởng, tập hợp Hành
và tập hợp Thức. Sắc thuộc phần vật chất, thấy được - reality; Thọ - Tưởng –
Hành và Thức thuộc phần Tâm
thức, không thấy được - mentality.
Từ Tâm thức chiêu cảm ra vật
chất, your mentality is your reality. Rồi
từ vật
chất đó, tùy thuộc sự chứng
đạo hay không chứng đạo ở mỗi con người, mà có quay
ngược lại ảnh
hưởng đến Tâm hay không. Người chứng đạo, sẽ thấy rõ tất cả vật chất đều phải theo thời gian mà hoại
diệt, nên không đau buồn và không phiền não. Đã là tập hợp, là có nhân duyên thành tựu. Có nhân
duyên thành tựu sẽ có nhân duyên tan rã. Sắc pháp nào cũng chung chân lý đó.
Cho dù đó là sắc
pháp thuộc về tôn giáo Phật giáo, cũng không ra khỏi quy luật thành, trụ, hoại và không. Vì
suy cho cùng, hình
tượng cũng là vật chất.
Đã là vật
chất thì phải có lúc tan rã mà thôi.
Tuy nhiên, khi vật đã
được Tâm
ấn vào, thì vật đó sẽ trở nên linh thiêng và linh
nghiệm, đó là “tâm ấn vật”. Nhất là
những hình
thức vật chất gợi lên chiều hướng giải thoát đã được tâm ấn vào. Lúc đó, bất cứ tâm niệm nào,
đi ngược lại tâm hướng giải
thoát, tác nghiệp hủy
hoại vật
chất đó bằng thế gian tâm,
thì sẽ theo chiều nhân
duyên, nhân quả, phải hứng chịu quả báo hủy
hoại do nghiệp đó gây ra. Nhân
duyên, nhân quả này rất rõ ràng trong
mọi trường
hợp.
Chính
như vậy, mới sinh phước báu mỗi khi phát tâm cúng dường xây
Chùa, đúc
Tượng. Cũng nhờ vậy, nên mỗi khi thờ Phật, lạy Phật,
mới sinh công
đức, hồi hướng đến cảnh giới giải
thoát. Nhờ kết tụ nhiều phước báu, nên
trên con
đường tu tập gặp được nhiều thuận duyên dẫn đến Chứng Quả. Chính Đức Phật Ngài
cũng dạy rõ, Ngài đã tu
tập vô lượng vô biên phước báu từ nhiều đời nhiều
kiếp, đến kiếp cuối
cùng, dưới cội Bồ Đề mới chứng thành Đạo
quả. Đó là cái nhìn từ Ứng Hóa Thân của Phật. Phật dạy rõ như vậy, nên sẽ không còn sa vào
lầm tưởng thờ
Phật, lạy Phật như thờ ngẫu tượng.
Đi xa hơn nữa,
người tu
Phật chân chánh, không vì chứng kiến sự hủy hoại của hình tượng Phật hay
chùa viện Phật
Giáo, mà sinh mất tín tâm về Tam Bảo hay giáo lý Nhân Quả Giải Thoát. Ngược lại, qua đó càng củng cố niềm tin vào diệu dụng của Chánh Pháp. Càng phát sinh
niệm hoan
hỷ, thấy rõ rằng, giáo lý giải thoát trải
qua hơn 2,500 năm, tùy thuận cảm
hóa đi vào lòng người, mà chưa từng tổn hại đến
bất cứ nền văn
hóa hay sinh linh nào. Chỉ duy nhất có một mục đích là
làm lợi
lạc, giúp chúng sanh hướng đến hạnh phúc giải thoát,
ra khỏi đau
khổ sinh tử luân hồi mà
thôi.
Như
vậy, trên con
đường hoằng pháp, khi đến một
nền văn
hóa mới, mà vô tình hay cố ý,
gây đau
khổ khó chịu cho hoàn cảnh người dân nơi đó, như thế là đã vô tình đi ngược
lại lời
Phật dạy.
Đến
bất cứ nơi đâu, Đạo
Phật có duyên thì hoằng hóa, hết
duyên thì tùy
thuận ra đi. Không theo bản ngã,
không vướng chấp
trước, tục lụy và khổ đau. Đức Phật là
bậc Đại
Giác Ngộ, phước báu công hạnh tròn đầy, Phật hóa độ vô lượng vô biên chúng sanh, nhưng Phật cũng
không thể hóa
độ được hết thảy chúng sanh. Phật cũng phải tùy thuận nhân duyên, cũng chỉ hóa độ được những ai có nhân duyên với Ngài mà thôi, “Phật hóa hữu duyên nhân” là vậy.
Sau
khi chứng
quả dưới cội Bồ Đề,
Phật đã dạy rõ, giáo
lý của Ta chỉ dành cho những ai “có
ít bụi trong mắt”. Nghĩa là chỉ dành cho những người có nhiều nhân duyên đi ngược lại thế gian, hướng đến giải thoát. Trần gian đau khổ này, còn biết bao sinh linh chưa từng nghe, cũng chưa từng biết dến con dường mầu nhiệm này. Làm sao tránh được những tác nghiệp từ
tâm những chúng sanh còn chưa đủ nhân duyên đó.
Nhưng
vui thay, ngày nay tinh
thần đạo Phật đã lan toả khắp mọi nơi trên thế giới.
Hai tượng
Phật khắc vào đá ở Bamiyan tuy không
còn, nhưng tinh
thần của Đức Phật đã
theo hương thơm giải
thoát lan xa hơn bất cứ thời điểm nào
trong quá
khứ. Đưa chúng sanh hướng đến đời sống hạnh phúc, hướng đến giải thoát khỏi sinh tử luân hồi mới
là cứu
cánh sau cùng của Phật Pháp, chứ hoàn
toàn không hạn cuộc ở thời gian hay không gian nào.
Nhìn
về khía cạnh vật
chất, vật chất không mất đi, chỉ chuyển từ dạng
này sang dạng khác. Khi sự việc này mở ra, sẽ là bước mở đầu để chờ ngày khép
lại. Khi sự việc này khép lại, là thềm thang cho sự việc mới mở ra. Phật Giáo từ Ấn
Độ, trên hình thức cũng khép lại tại Ấn Độ, sau đó qua Trung Á, cũng đã khép lại
tại các nước Trung Á. Hiện nay đang mở ra rực rỡ tại các nước phương Tây… Tương
lai không rõ bao xa, cũng sẽ có ngày khép lại. Nhưng diệu dụng của Phật Pháp ở chỗ, nơi
nào có Phật
Pháp, là nơi đó có hạnh phúc và chứng
đắc. Tương lai, hiện tượng của Phật Pháp dù có theo
vòng sinh
diệt, nhưng những chúng sanh chân
thật tu tập theo Giáo Pháp đó, đã được chứng đắc, bỏ lại sau lưng
tất cả các pháp còn nằm trong
vòng sanh diệt.
Trong
Kinh Chuyển
Pháp Luân, Phật dạy rõ “hỡi này các Tỳ kheo, đây là chân lý thâm diệu về nguồn gốc của đau khổ. Chính ái dục là nguyên nhân đưa đến sự tái sanh.
Ái, hợp với tâm thiết tha khao khát, bám níu cái này hay cái kia của đời sống. Chính là ái, đeo níu theo nhục dục ngũ trần, ái đeo níu theo sự sinh tồn, luyến
ái với ý tưởng cho rằng vạn vật là trường tồn vĩnh
cửu, và ái, đeo níu theo sự không sinh tồn, vô sanh ái, luyến ái với ý tưởng cho rằng
sau cái chết là hư
vô.” Những hình thức của Ái như thế luôn khởi lên trong tâm của chúng sanh chưa giác ngộ.
Kinh Pháp Cú ghi: "Do ái dục sanh phiền muộn.
Do ái
dục sanh lo sợ. Người đã hoàn toàn chấm
dứt ái dục, không còn phiền muộn,
càng ít lo sợ". Vì tham ái nên
sân và si khởi lên. Vì chấp
ngã nên mới tổn hại chúng sanh khác. Đạo Phật trước sau không ngoài đoạn tận Tham Ái và Chấp Ngã.
Từ nơi đó, sẽ thấy rõ các pháp
không ra ngoài vòng nhân duyên sanh khởi, sẽ tự tại với sự xoay vần của các pháp.
Đối diện với vô thường, Tâm
không có Tham Ái và Chấp Ngã chen
vào, để rồi không còn hoài
nghi, không còn đau khổ và phiền não nữa. Đó chính là cái thấy chân chánh, là ngọn đèn luôn
bên mình, soi rọi suốt con
đường tu tập đạt đến Niết Bàn.
Đó
cũng chính là cảnh
giới Tôn giả Kiều Trần Như,
Kondanna, đã chứng đạt sau khi nghe bài pháp đầu tiên của Đức Phật giảng
tại Vườn
Nai. Trong Kinh nói, sau khi nghe pháp xong, Ngài Kiều Trần Như khởi
lên pháp
nhãn thanh tịnh, không cấu uế như
sau: “Phàm vật gì được tập khởi,
tất cả pháp ấy cũng bị đoạn diệt”
Ngay sau khi Tâm không còn bóng dáng của Ngã và
Ái, tâm được hoàn
toàn giải thoát. Cảnh giới ấy là chân lý Diệt trong bốn thánh đế. Đó là, xa lánh trọn vẹn và tận diệt chính tâm ái
dục ấy. Đó là sự rời bỏ, sự từ
khước, sự thoát
ly và sự tách rời ra khỏi tâm ái dục.
Dưới cội Bồ
Đề khi Đức Phật đã chứng đắc bốn
thánh đế, lúc ấy tâm Ngài phát sanh tri kiến
và tuệ
giác: “Tâm của Như Lai đã hoàn toàn giải thoát một cách vững chắc,
không còn lay chuyển, và đây là kiếp sống cuối cùng, không còn đời sống nào
khác nữa”.
Cảnh giới Diệt
của Chứng
Đắc không phân biệt giới
hạn thời gian hay trú xứ
nào. Không phân
biệt thời gần Phật hay xa Phật. Phật
dạy, hễ thật tâm Tu sẽ thật tâm Chứng. Nhân mùa Xuân mới
năm Đinh Dậu 2017, chúng con/chúng tôi chỉ xin hết sức thô thiển khái quát về lịch sử Phật Giáo tại
Afghanistan, để qua đó có dịp cảm niệm về dấu chân của các bậc Tổ sư qua
mọi thời
đại, cảm niệm về giáo lý Vô Thường. Còn rất nhiều thông tin và chi tiết hơn
nữa nằm ở các tác
phẩm chuyên sâu của các bậc dịch giả
và thức
giả từ xưa đến nay.
Qua đây, chúng con xin dâng nén tâm hương, kính chúc muôn
loài chúng
sanh, sớm đạt được Chân Thường trong cuộc đời vốn vô thường này.
Nam mô A Di Đà Phật
TKN Thích Nữ Giác Anh
Pháp Bảo Tự Viện,
vùng St Johns Park, thành phố Sydney, Úc Đại Lợi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét