Be Save (Hãy gắng sống)
(Truyện dành cho lứa tuổi từ
13 trở lên)
***
Theo mạch
truyện thì dần dần ta phát hiện chuyện xảy ra tại Mỹ, trong một thành phố nhỏ thanh
bình mà nạn thất nghiệp diễn ra khá phổ biến, nhất là với đám thanh niên mới lớn.
Nhân vật
chính của tác phẩm là Oskar, 16 tuổi, học sinh trung học. Oskar kể về gia đình mình,
gồm anh trai Jeremy, cha mẹ và bà nội. Và còn có Marka, cô bạn gái đầu tiên
nhưng cũng là bạn học và bạn diễn, và Jef - anh trai của Marka… Ngoài ra còn có
nhiều nhân vật khác, các bạn học cùng trường với Oskar và Marka… Oskar thích nhạc
rock và cậu vẫn thường chơi cùng với anh trai Jérémy trước khi anh tòng quân,
sau đó thì cậu lại chơi cùng với Marka và gộp thành ban nhạc O &M để chơi tại trường trung học của
họ.
Do đã tốt
nghiệp trung học mà không có việc làm, và trường học vốn không phải là thứ mà
Jeremy say mê nhất, nên Jeremy đầu quân vào quân đội khi được họ hứa sẽ đào tạo
cậu thành một «người xây dựng cầu đường», ngành mà cậu vốn mơ ước. Nhưng
thực tế không phải vậy. Do có tài năng về bắn súng,
Jérémy được đào tạo nhanh chóng và gửi sang Irak. Tại đó, Jeremy đã khám phá ra
địa ngục trần gian, sự phi lý của tình trạng thực tế, những cái chết thảm thương, những vụ đánh bom cảm tử và nhất là Jef,
người bạn cũng phố, cùng học, bị thương bất ngờ do bị tấn công bằng bom và bác
sỹ đã buộc phải cưa chân của Jef, rồi cảnh khắc nghiệt của chiến tranh đã khiến
một người bạn khác là Léon đào ngũ… Nhưng
khó nhất có lẽ là làm thế nào để kể sự thật diễn ra ở doanh trại chiến trường cho
người thân ở nhà mà không khiến họ bị choáng đây ?
Nhưng một
tối, trước khi tòng quân, hai anh em Jeremy và Oskar đã khám phá ra cuốn album ảnh
bí mật của bố trên gác sép và phát hiện ra sự thật về một cái tên, một nhân vật
mà bố họ luôn nhắc đến nhưng họ không bao giờ gặp mặt thì lại chính là… bố của
họ. Bố của Jeremy và Oskar (Frank) thực ra là một tay súng bắn tỉa kỳ khôi và
là một cựu chiến binh đã từng tham chiến tại Việt
Nam, nhưng ông lại không bao giờ kể về cuộc đời ấy, mà sau này ông đã gọi khoảng
thời gian ấy là «một cuộc đời khác». Vết thương khiến ông đi cà nhắc một
cách khó nhọc cũng không bao giờ được đề cập
đến. Với ông, chiến tranh thực là khủng khiếp…
« Và
bất thình lình, một khuôn mặt méo mó, vặn vẹo vì đau đớn. Khuôn mặt của bố nằm trên
băng ca, ống quần dính đầy máu ở ngang tầm chân trái, cái chân mà hiện giờ bị vặn
vẹo hoàn toàn ấy. Nó gần như dời hẳn khỏi cơ thể của bố. Quảng trị, 13 tháng bảy, năm 1970.
- Chân
của bố, Oskar ạ ! Xem này ! Câu chuyện ở nhà xe, đúng là vớ vẩn hết
chỗ nói! Tất cả những gì bố kể cho tụi mình nghe cho đến tận lúc này thì toàn
là phịa cả thôi ! Anh không thể tin nổi.
Hổn hển,
tôi hết nhìn đăm đăm khuôn mặt của bố lại nhìn xuống cái chân của ông. Jeremy gần
như phải lôi tôi ra khỏi cảnh tượng hãi hùng đó để lật sang trang cuối cùng. Chỉ
còn bốn bức nữa thôi, trong đó có ba bức chụp trong một bệnh viện… »
Và quả như thế, Jérémy đã sống cùng những thảm cảnh mà bố của cậu
đã từng sống khi tham ra chiến tranh tại Việt Nam. Nhưng dẫu sao, qua những lá
thư điện tử, Jeremy đã kể cho Oskar nghe cuộc sống thường ngày của mình và luôn
kết thúc thư bằng một câu «Be safe», (Hãy gắng sống), và cậu đã dặn em
trai là phải giữ bí mật những điều mình kể, không được để cho bố mẹ biết. Oskar
đã khám phá ra sự khốc liệt của chiến tranh qua những lá thư điện tử của anh
trai mình như vậy, những điều trái ngược hẳn với cuộc sống bình yên của cậu tại
thành phố nhỏ quê hương ấy. Điều này lý giải cho cơn thịnh nộ của Frank khi biết
đứa con trai đầu của mình đã ghi tên tòng quân. Ông đã
giải thích cho con biết rằng thực ra chiến tranh
không hoàn toàn như lời hứa mà những người tuyển mộ đã nói với nó. Rằng trong
quân đội, người ta không thể để một thiện xạ bắn tỉa đi «xây dựng cầu đường».
Rồi khi
Jérémy và Jef tham trận tại Irak, và khi được tin Jef bị thương, đôi bạn Oskar
và Marka đã sáng tác những ca khúc dành tặng người chiến binh trẻ tàn phế, những
ca khúc gửi đến người anh vẫn còn nơi chiến trận và cùng nhau luyện tập. Và cuối
cùng họ đã thành công, các bài hát của họ đã được các bạn, thầy cô cũng trường
và các bậc cha mẹ đánh giá cao và ủng hộ nhiệt liệt ! Thế rồi « tiếng
lành đồn xa », và đã đến tai Marie, một nhà sản xuất đĩa nhạc, và một CD của
ban nhạc O&M đã ra đời.
Thời gian
qua đi, chiến tranh càng ngày càng mang tính hiện đại hơn, hủy diệt và gây đau
thương nhiều hơn, nhưng cảm xúc của những con người chứng kiến những thảm họa
thì vẫn thế, và tình cảm con người dành cho nhau khi cái chết cận kề vẫn vậy.
Cho dù chiến tranh ở VN (với bố) hay cuộc chiến ở Irak (với con) thì những người
liên quan vẫn luôn phải gắng chịu sự vắng
bóng của người thân với những lo toan mơ hồ do thiếu vắng thông tin, tin tức và
nhất là sự thật về những gì đang thật sự diễn ra nơi chiến trận…
Một câu chuyện
cảm động về tình anh em ruột thịt trong một thời đại mà «ai biết thân người ấy»
và nhất là câu chuyện lại xảy ra tại Mỹ. Qua đây, chúng ta hiểu thêm về quân đội
Mỹ và cách tuyển quân «không giống ai» của họ.
«Ngày
mai anh Jeremy sẽ lên đường. Mình không được khóc. Hai câu bẳn tiện này cứ
không ngừng quay cuồng trong tôi mà không để tôi nghỉ ngơi lấy một giây nào hết.
Chúng lao vào nhau, va vào nhau ngay trong hộp sọ tôi hệt như những con chim
đang hoảng loạn vậy.
«Ngày
mai anh Jeremy sẽ lên đương. Mình không được khóc. Ngày mai anh Jeremy lên đường.
Mình không được khóc. Mình không được khóc… Không được khóc… Không được khóc…
Và bất
thình lình tôi đã bị đánh lùi, hệt như một con đê bị vỡ vậy. Tôi bắt đầu khóc.
Một cơn hồng thủy thực sự ! Một trận lũ lụt thế kỷ ! Tôi khóc tức tưởi
hệt như một thằng bé mà không sao dừng lại được…
Ngày
mai anh Jeremy lên đường… »
Qua đây,
tác giả cũng chỉ ra một số bộ phận thanh niên, vốn đang bị thất nghiệp lại xa dời
thực tế nên dễ dàng bị thuyết phục qua những lời hứa màu hồng, bởi theo họ chiến tranh thì quá xa vời, họ
không hiểu gì thực tế mà chỉ thi thoảng xem các cảnh trên truyền hình mà họ vốn
coi đó là phim ảnh. Đây là một cuốn tiểu thuyết thú vị, dễ đọc, cuốn hút bằng
những câu chuyện đời thường và ngôn ngữ giản đơn, lối viết mộc mạc nhưng lại diễn
tả được một cách sâu sắc đậm tính nhân văn về tình cảm, về các mối liên hệ và sự
chuyển biến của cả một gia đình. Ngay cả khi biết Jeremy đào ngũ, chúng ta thấy
cũng có thể thông cảm được và không bị sốc… Một Oskar không thông minh xuất
chúng nhưng có cuộc sống sôi động đầy đam mê, Oskar là hiện thân của vô vàn trẻ
vị thành niên trong thời đại ngày nay. Cậu loay hoay tìm sự giống nhau của cha
mình trong bức ảnh khi tham trận tại Việt Nam, bên cạnh người lính Việt bị thương
và người cha hiền lành của mình hiện giờ. Cậu loay hoay tìm cho mình những lời
giải đáp…
Một câu
chuyện có kết cấu thông minh : các tình tiết trầm trọng được miêu tả bằng
những ngôn ngữ đơn giản, cách đề cập chuyện, cộng thêm những
tình tiết nhẹ nhàng của mối tình đầu của tuổi học trò (giữa Oskar và Marka), những
lời cổ vũ của anh trai đối với đứa em… Các nhân vật phụ cũng dễ mến : bố
suốt ngày hý húi trong nhà xe để sửa những chiếc xe cổ lỗ, và nhất là điều bí mật
cố giấu của ông về những năm tháng tham gia cuộc chiến tranh tại Việt Nam nhưng
rút cục đã bị những đứa con khám phá ra. Một bà nội già mà vẫn lái xe đi cả
ngàn dặm đến chơi với con cháu với cả thùng các tiểu thuyết tình yêu ủy mị, và
khi cần, sẵn sàng « tiếp tay cho đứa cháu ngoại của mình vượt biên để đào
ngũ… Bà là hiện thân của chất hài dí dỏm trong tác phẩm…
Truyện dễ
đọc, xúc tích và cuốn hút. Một truyện của tác giả Pháp nhưng lại được viết theo
lối Mỹ nên có tính lai căng tạo thêm phần thú vị.
Dành cho lứa tuổi từ 13 đổ lên.
Tác
phẩm đã được trao 14 giải thưởng văn học và được bộ Giáo dục quốc gia Pháp chọn
đưa vào mục Sách đọc tại trường trung học.
Tác phẩm đã được dịch ra khá nhiều thứ tiếng trong đó có Hàn Quốc, Tây
Ban Nha, Catalogne và Italia và Trung quốc.
Ngoài ra, một tác phẩm khác của ông, tác phẩm Trái tim
thơ ngây của tôi (Mon petit coeur imbécile) cũng đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng như Trung Quốc giản thể, Trung quốc phức hợp (phồn thể),
Đức, Ý Hàn Quốc và Nhật Bản và cũng nằm trong sách được Bộ giáo dục Pháp chọn
đưa vào học đường.
Đôi lời
về tác giả : Xavier-Laurent Petit sinh năm 1956 trong vùng
ngoại ô Paris. Ông đã theo học nhàng Triết học, nhưng sau đó lại làm nghề dạy học,
ông là giáo viên dạy cấp I. Trở thành nhà văn, ông dời khỏi ngành giáo dục. Các
tác phẩm hầu hết đều được viết cho lứa tuổi trẻ. Ông đã nhận được rất nhiều giải
thưởng cho các tác phẩm của mình. Tác phẩm đầu tiên của ông xuất hiện năm 1994
gồm những tác phẩm khoa học viễn tưởng.
Sách của
ông thường xuyên được Bộ giáo dục quốc gia Pháp chọn để đưa vào học đường.
Ông cũng
tham gia cộng tác với khá nhiều tạp chí
Chúng tôi
trân trọng giới thiệu
Paris 07 tháng 6 năm 2017
Hiệu Constant
Tên tác phẩm
nguyên bản : Be save
Tên tiếng
Việt : Be save (Hãy gắng sống)
Tác giả :
Xavier-Laurent Petit
Nhà xuất bản :
L’Ecole des loisirs
Năm xuất bản :
2007
Số
trang : 260
Các giải thưởng đã được trao tặng cho tác phẩm Be save (Hãy gắng sống):
Prix des 13-16 ans de
la ville du Mans et département de la Sarthe
Le prix Littérature Jeunesse 2009 organisé par la Ville
de Cholet
Le prix des dévoreurs de livres 2008 remis par un jury de collégiens de l'Eure,
Le prix du Livre Historique 2008 de la ville de Poitiers,
Le prix littéraire départemental des collégiens de l'Hérault 2008,
Le prix NRP (Nouvelle Revue Pédagogique) 2007,
Le prix Frissons Vercors 2007,
Le prix Sésame 2008 du salon du livre de Saint-Paul-Trois-Châteaux,
Le prix Sorcières 2009, le prix littéraire des collégiens de Haute-Savoie
Le prix "Le livre élu en Livradois-Forez" (ABLF),
Le Scelte di classe 2012 attribué par un jury d'enfants au festival du livre pour enfants à Rome "La tribu dei lettori".
Le prix des dévoreurs de livres 2008 remis par un jury de collégiens de l'Eure,
Le prix du Livre Historique 2008 de la ville de Poitiers,
Le prix littéraire départemental des collégiens de l'Hérault 2008,
Le prix NRP (Nouvelle Revue Pédagogique) 2007,
Le prix Frissons Vercors 2007,
Le prix Sésame 2008 du salon du livre de Saint-Paul-Trois-Châteaux,
Le prix Sorcières 2009, le prix littéraire des collégiens de Haute-Savoie
Le prix "Le livre élu en Livradois-Forez" (ABLF),
Le Scelte di classe 2012 attribué par un jury d'enfants au festival du livre pour enfants à Rome "La tribu dei lettori".
Bìa bốn :
Mới chỉ vài
tuần trước, tôi vẫn đang gãi đàn ghi ta cũng với Jeremy trong nhà chứa xe và mơ
đến sự vinh quang và mơ đến rock’n’roll trong khi bố đang nằm ngửa dưới gầm xe
và trong đám dầu mỡ để hí hoáy thay đổi các loại mô tơ. Phải đến ngày chúng tôi
chạm mặt các viên đội tuyển mộ lính, ngay trên parking của siêu thị vào một
ngày chúng tôi muốn uống Coca.
Họ đã hứa
với anh rằng anh sẽ có một nghề nghiệp tốt, rằng anh sẽ đi xây những cây cầu.
Thế là anh
ấy ký giấy tuyển.
«Chiến
binh chuyên trách hàng đầu Jeremy O’Neil vĩnh viễn được điều về đại đội Sygma của
tiểu đoàn 3, trung đoàn Lính dù 504 thuộc sư đoàn Không vận 82», - trên giấy
nói thế.
Nói cho
nhanh hiểu, điều đó có nghĩa là Jeremy sẽ đến nơi ấy. Nơi mà chiến tranh đang
hoành hành. Anh đến đó để giết người hoặc để cho bị người giết. Chúng tôi sẽ
không gặp lại anh trong nhiều tháng tới đây. Anh hứa sẽ viết thư cho tôi.
Và trong tất
cả các lá thư của anh, anh đều kết thúc bằng câu : Be save. Hãy gắng
sống em nhé !
Các
tác phẩm đã nhận các giải thưởng của Xavier-Laurent Petit:
Năm 1998, giải
Prix Goya 1998 cho tác phẩm Le Monde d’en haut.
Giải
Prix Prométhée 1996 cho L’Année
de la Baleine.
Giải Prix
de Sorcières 1996 cho Colorbelle-ébène.
Prix du
roman historique jeunesse 1998, prix des lecteurs du Mans 1998, prix Tatoulu
1998 cho L'Oasis.
Prix de
l'Assemblée Nationale 2000, prix du roman historique jeunesse 2001 cho Fils de guerre.
Giải Prix du roman policier jeunesse 2001, prix Ado 2003 cho L'Homme du jardin.
Giải Prix Saint-Exupéry 2003, prix Chronos Suisse cho 153 jours en hiver.
Giải Prix
Jacaranda 2008 cho Mæstro. Giải second prix des collégiens 2011 cho L'Attrape-rêves
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét