Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016

Tiến sĩ sử học Thu Trang: Hồn tôi ở phương trời ấy



Thoạt đầu bà nói với tôi trong một chất giọng đặc Hà Nội, khiến tôi hơi giật mình, nhưng để giải thích, bà kể: “Tôi tên thật là Công Thị Nghĩa, sinh năm 1932, trong một gia đình tiểu tư sản, người làng Ngọc Hà, cha tôi thời ấy là một công chức được điều động vào Sài Gòn, nên khi đến năm mười tuổi, gia đình theo ông vào Nam…” Và cứ như vậy, trong một buổi chiều đầu xuân, trong căn nhà óng ả gần Paris của gia đình bà, bà đã tâm sự toàn bộ cuộc đời của mình. Những năm tháng cứ trượt lượt, nhưng những dấu mốc lịch sử và những thăng trầm của đời bà hiện ra như mộhttp://baoquocte.vn/tien-si-su-hoc-thu-trang-hon-toi-o-phuong-troi-ay-2642.htmlt cuốn phim quay chậm.
“Tuổi thơ tôi trôi đi cũng êm đềm như những đứa trẻ khác, bà kể. Cho đến khi có phong trào Trần Văn Ơn phát động Học sinh, Sinh viên nổi dậy chống sự đổ bộ của Mỹ vào Miền Nam Việt Nam...” Rồi bà kể lại những chuỗi ngày trốn nhà đi biểu tình và từ đó bà gặp được cán bộ lão thành của cách mạng rồi thấm nhuần được tư tưởng yêu nước.
 Con đường hoạt động cách mạng bắt đầu diễn ra từ đó. Nhưng đến năm 1952, bà bị bắt và đưa ra trước Toà án binh Pháp, và được đích thân luật sư Nguyễn Hữu Thọ bào chữa tại toà án. Trong những ngày ở trong đề lao, bà có dịp được tiếp cận những đàn chị cách mạng như bà Nguyễn thị Bình, bà Đỗ Duy Liên… Cho đến gần một năm sau, năm 1953, chính phủ Pháp phân tán tù nhân, và bà được đưa về Sài gòn và được trả tự do. Biết bà là người gan dạ, một số trí thức cấp tiến, thân Bắc kỳ đã giới thiệu và đưa nhập vào làng báo chí. Ý thức báo chí là vũ khí lợi hại nhất để đấu tranh cho quyền  dân tộc, bà chấp nhận ngay và hồi đó bà viết cho các báo Sài Gòn Mới, Phụ nữ diễn đàn, Lẽ sống… dưới nhiều bút danh khác nhau như Thu Trang, Thanh Tâm, Nguyễn Huyền Thu... Khi tôi đưa tay chỉ một bức ảnh đen trắng, trong hình là một phụ nữ trẻ đội vương miện Hoa hậu. Bà cười, những nếp nhăn như dãn ra: “Vâng đó là một kỷ niệm đẹp, nhưng cũng là do một sự tình cờ thôi. Hôm ấy, nghe tin ban tổ chức có tổ chức cuộc thi Hoa hậu, nhân danh phóng viên, tôi đến đó để lấy tin cho báo. Không ngờ khi gặp tôi, thì Ban tổ chức trầm trồ và cố thuyết phục gia đình cho phép tôi tham gia. Vậy là trong có hai mươi bốn tiếng đồng hồ, một chiếc áo dài đăng ten, màu vàng rất đẹp được may gấp để tôi có trang phục đi dự thi Hoa hậu…” 
Nhưng điều khiến tôi đến gặp bà hôm nay lại là chuyện khác, và những câu hỏi cứ trực phát ra trên môi tôi, cuối cùng tôi cũng chen vào được để hỏi bà, lý do nào khiến bà rời bỏ tất cả để đi Pháp. Bà thổ lộ rằng kể từ khi đăng quang Hoa hậu, một số nhà làm phim đã mời bà đóng phim, và do vậy, một nhóm người Pháp đã phát hiện và mời bà tham gia làm phim truyền hình với họ và cũng vì thế mà bà được qua Pháp an toàn. Sau này có dịp một người bạn trong ngành báo chí kể cho bà nghe lại rằng khi biết tin bà đã đi nước ngoài trót lọt thì Trần Lệ Xuân đã ném cả cốc nước trà vào mặt Tổng Nội vụ thời đó và quát: “Tại sao các ông lại cho con Việt Cộng nằm vùng đó trốn thoát hả!” Khi được hỏi con đường nào đã khiến bà từ một Hoa Hậu, đến diễn viên phim trường, nhưng sau đó lại thành Tiến sĩ sử học, giọng bà như trầm lại: “Đúng vậy, khi sang Pháp, các nhà làm Phim đề nghị tôi đóng những bộ phim chống Cộng và ca ngợi Pháp trong thời kỳ thuộc địa vàng son của họ ở Đông dương, vậy là tôi từ chối. Tôi cũng không thể về nước, vì những năm đó, Chính Phủ Diệm bắt đầu thực hiện luật 10/59, rất nhiều bà con thân hữu khuyên tôi không nên trở về trong lúc này. Trong cảnh bơ vơ đất lạ, tôi tham gia những khoá học tiếng Pháp đầu tiên tại Sorbonne. Tôi may mắn được chính giáo sư Durand kèm cặp...” Bà kể rằng vị giáo sư ấy không chỉ là một nhà ngôn ngữ học mà còn là một nhà sử học. Chính nhờ ông mà bà khám phá ra một điều mới mẻ và muốn theo học đến cùng để tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi cứ đau đáu trong tim liên quan đến tổ quốc Việt nam yêu dấu. Đến năm 1964, thì bà chính thức ghi tên vào khoá học của giáo sư Durand tại Trường cao học Ngôn ngữ và sử học Đông dương. Tại đây, bà đã khám phá ra những hoạt động của các trí thức cả Nho học và Tân học Việt Nam tại Pháp, họ thu được rất nhiều những kết quả khả quan đã dấy lên tình yêu nước chống thực dân trong giới Việt Kiều, đánh thức dư luận Pháp về chế độ thuộc địa. Chính vì thế khi tốt nghiệp cao học, bà đã chọn đề tài làm luận án về Phan Châu Trinh vào khoảng những năm 1969 – 1970. 

Trong tâm trạng của một người dân mất nước, bà say sưa nghiên cứu về khoảng thời gian Pháp đô hộ Việt Nam. Và chính những nghiên cứu ấy đã như một liều thuốc, như một dòng nước mát giúp bà hiểu biết nhiều điều, vén bức màn bí mật để tìm ra chân lý. Những phong trào Văn Thân, Cần Vương, Hoàng Hoa Thám, rồi từ đó dẫn đến hai khuynh hướng bất bạo của Phan Bội Châu, và văn hoá của nhóm Đông kinh Nghĩa Thục hồi đầu thế kỷ. Ơ Pháp, các nghiên cứu được các nhà sử học Tây Phương hướng dẫn tỷ mỷ theo các phương pháp rất có tính khoa học. Họ chú trọng về vấn đề xác minh sự thật, tìm hiểu hoàn cảnh sống của từng nhân vật, từng thời đại. Khi hoàn thành luận án, bà đã thu lược và viết thành sách, cuốn có tựa đề: Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911 – 1925 và đã được ấn hành tại Pháp năm 1983. Sau này, cuốn ấy được Trung tâm Quốc học tái bản và in lần đầu tiên tại Việt nam với nhiều tài liệu bổ sung. Một phần do chính tác giả sau những tìm tòi và có thêm sự trợ giúp của chính gia đình Phan Châu Trinh, cộng với một số tài liệu của bà Lê Thị Kinh, một trong số cháu ngoại của cụ Phan đã sang Pháp sưu tầm thêm. Còn cuốn Những hoạt động của Nguyễn Ai Quốc tại Pháp 1917 – 1923 đã được trong nước in từ những năm 1990. Bà còn kể cho tôi nghe một số kỷ niệm sâu lặng với nhà triết học Trần Đức Thảo khi ông qua Paris trong những năm đầu thập kỷ 90. Và qua đó, bà đã viết một bài rất tình cảm, chan chứa sự ngưỡng mộ đối với triết gia nổi tiếng này. Bài viết có tựa đề Một vài kỷ niệm với nhà triết học tại Paris, bài viết được đăng trong tạp chí Hồn Việt số 01 của năm 2003.
Khi tìm hiểu về những hoạt động của bà, tôi còn thấy bà rất quan tâm đến ngành du lịch, khi được hỏi, bà tâm sự: “Du lịch là hướng phát triển đầy tiềm năng của Việt Nam, tôi muốn ngành du lịch VN phải phát triển đúng hướng, không nên vì lợi nhuận mà băng hoại đạo đức của dân tộc mình, làm ô nhiễm môi trường và tàn phá cảnh quan của đất nước…” Được biết, từ những năm đầu của thập kỷ 80, bà đã thường xuyên về Việt Nam, từ Nam đến Bắc để tham gia giảng dạy trong các trường Đại học và tổ chức các cuộc hội thảo về văn hoá du lịch: “Mỗi ngành đều có một nền văn hoá riêng của nó, bà nói, phải đi đúng hướng thì mới phát huy được hết khả năng, tận dụng được mọi khía cạnh của nó.” Rồi bà nói thêm: “Trong một lần về nước tham dự cuộc hội thảo “Bản sắc dân tộc trong văn hoá văn nghệ” do Trung tâm Quốc học tổ chức, buổi đó tôi đã phát biểu rất sâu về bản sắc và ngôn ngữ dân tộc. Ngay cả ở Pháp, báo chí vẫn thường xuyên cảnh báo việc chen các từ tiếng Anh vào trong văn viết và văn nói của một số người, nhưng đúng là trên thực tế vẫn rất khó cưỡng lại trong thời buổi toàn cầu hoá này, nó có thể cũng có những điểm tích cực, nhưng nếu đất nước nào không vững vàng về mặt giáo dục, thì chắc chắn sẽ bị xu hướng toàn cầu hoá cuốn đi như một cơn lốc”
Như để chứng minh điều ấy, trong suốt buổi nói chuyện, thỉnh thoảng bà quay sang tôi: “Người Nam thì nói thế này… Người Bắc thì nói thế này… Đúng vậy không?” Ngoài ra, bà luôn tận dụng những lần về nước để làm từ thiện. Với chức danh của mình, từ những năm 1983, bà đã đi thâu góp, quyên tiền ủng hộ xây dựng được một số trường lớp cho trẻ em bụi đời ở Sài gòn. Hay đến tặng quá tình nghĩa cho các nạn nhân chất độc màu da cam tại làng Vân canh trong những năm gần đây. Ngoài những hoạt động xã hội và công việc của mình, trong một thời gian dài, bà còn là một cây viết tích cực, và biên tập viên kiên nhẫn của tạp chí Đoàn kết, một tạp chí của cộng đồng Việt Nam yêu nước tại Pháp. Bà còn là một nhà thơ, và đã được vinh danh là một trong một trăm nhà thơ lớn của việt nam thế kỷ XX được bình chọn năm 2007, với tập thơ Nói sao cho vợi. Giờ đây, đã qua tuổi “Thất thập cổ lai hy”, bà vẫn miệt mài làm việc và tham gia vào các phong trào giúp đỡ các em học sinh sinh viên mới sang Pháp du học. Và bà còn theo đuổi niềm đam mê của mình là vẽ. Bà khoe với tôi rằng đã có cuộc triển lãm riêng của mình tại Paris. Sau suốt buổi nói chuyện, tôi thấy luôn toát lên trong tâm bà một niềm ham muốn, được đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Khổ thơ sau được trích trong bài thơ Nói sao cho vợi được viết từ năm 1969, của cựu Hoa hậu, tiến sĩ sử học, và thi sĩ Thu Trang đã phần nào nói lên được nỗi lòng của người con xa xứ:
“… Giữa muôn hương sắc huy hoàng
Tôi không thấy mùa xuân sang
Hồn tôi ở phương trời ấy
Tôi đợi mùa xuân Việt Nam!”
Paris 17 tháng tư năm 2008
Bài và ảnh Hiệu Constant




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét